Ban biên tập: Tư Tưởng Không Trong Kinh Bát Nhã là bài tổng luận của Hòa thượng Thích Thanh Kiểm dành cho khóa tu học Huynh trưởng GDPT tạI Tổ đình Vĩnh Nghiêm Saigon, trườc khi khai giải Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh. (Kỷ yếu Hội Ngộ Vĩnh Nghiêm 2001 trích đăng lại theo ấn bản 1993 của GÐPT Tổ đình Vĩnh Nghiêm ấn hành).
Cây bồ đề được coi là một trong những biểu tượng của nhà Phật. Nơi Đức Phật thiền định để tìm ra nguồn gốc mọi khổ đau, con người phải hứng chịu. Gỗ của cây bồ đề được dùng làm tràng hạt sử dụng trong các buổi trì chú hoặc tụng kinh. Xâu chỗi tràng hạt thường có 108 hạt.
Đức Phật có nhiều danh xưng khác nhau như Như lai, Thiện thệ, Chánh đẳng giác, Thế tôn, Đạo sư, bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, bậc Toàn giác, v.v... Bậc Nhất thiết trí là danh xưng của chư Phật không phải là danh xưng của đức Phật Thích Ca. Vị nào đạt được Phật qủa, vị đó có Nhất thiết trí. Nói cách khác, Phật là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết trí là Phật. Bậc Nhất thiết trí là bậc có trí tuệ hiểu biết tất cả (nội dung cụ thể sẽ được trình bày ở phần sau), được dịch từ từ sabbaññù, sabbavidù (Pàli) hay từ sarvajña[1] (Sanskrit). Từ sabbaññù (hay sarvajña) có khi được dịch là bậc Nhất thiết trí, bậc Toàn tri, bậc Toàn giác[2]...Để bài viết được thống nhất, người viết sẽ sử dụng từ ngữ Nhất thiết trí. Người đệ tử Phật dù xuất gia hay tại gia nếu có học Phật pháp thì đều biết rõ đức Phật là bậc Nhất thiết trí. Vì điều đó được ghi rất rõ không những trong kinh điển Phật giáo Đại thừa mà ngay cả trong kinh điển A-hàm[3].
Để giúp các bạn hiểu thêm về cách xưng hô trong Phật giáo , BBT trang web. VINHNGHIEM.DE xin trích đăng bài viết của Thượng Tọa Thích Chân Tuệ và cũng nhằm để giải đáp một số câu hỏi thường gặp dưới đây :
Khi làm các Phật sự, chúng ta thường nghĩ là được nhiều công đức và thường được tán dương đã làm được vô lượng công đức, cho nên cứ tiếp tục làm hằng năm. Chúng ta hãy dành thời gian để tìm hiểu một vấn đề khá quan trọng, đó là: "Công Ðức và Phúc Ðức khác nhau thế nào?"
Đây là một nguyên tắc đã được nêu ra khá sớm, ngay từ thời đức Phật còn tại thế. Trong giai đoạn hiện nay, nguyên tắc này càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong việc xác lập niềm tin vào Tam bảo.
Tôn giáo lẽ ra phải phục vụ cho sự đoàn kết của con người và gìn giữ sự hòa hợp trong cộng đồng giữa các quốc gia và xã hội. Nhưng trong lịch sử của các quốc gia, một số tôn giáo lại diễn ra những cảnh bạo lực bi thương. Vào thế kỷ 19 hầu hết những nước Phật giáo tại Đông Á nói riêng, và Châu Á nói chung đều bị Châu Âu cai trị và mệnh danh tôn giáo để đe dọa truyền thống văn hóa của họ. Thực dân thuộc địa đến các quốc gia này đã bành trướng thế lực với danh nghĩa rao truyền văn minh nhân loại. Các dân tộc Đông Nam Á trong đó có Việt Nam chúng ta, phải đương đầu với thực dân thuộc địa về cả hai mặt quân sự cũng như văn hóa. Một số Tăng Ni thời đó đến với Phật giáo vì thế cuộc nhiễu nhương hơn là vì ý nguyện xuất gia, hoằng truyền chánh pháp. Đa phần Phật tử hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các phong trào chống Pháp, các phong trào Cần Vương, các phong trào Cách mạng, chùa chiền bị bỏ hoang, ngôi nhà Phật giáo bị nguy biến.