GIỚI LUẬT LÀ NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

Đăng lúc: Thứ ba - 20/08/2013 18:51 - Người đăng bài viết: Redakteur
GIỚI LUẬT LÀ NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

GIỚI LUẬT LÀ NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO

Trong xã hội ngày nay, mọi giá trị về khoa học kĩ thuật, văn hóa, chính trị, các học thuyết tôn giáo đều chịu ảnh hưởng tương tác, Phật giáo lại càng không ngoại lệ. Phật giáo xuất hiện và tồn tại trên thế gian vì muốn làm vơi bớt nỗi đau thương của nhân loại và hơn thế nữa là hướng dẫn mọi người trong việc kiến tạo đời sống an lạc căn cứ trên nền tảng đạo đức, trí tuệ và từ bi.

Lật lại sách sử, hình ảnh các vị Thiền sư, nhất là vào thời Lý, Trần luôn sống đúng lời dạy của đức Phật: “Này các Tỳ -kheo! Hãy du hành vì lợi ích và hạnh phúc của chư thiên và loài người”, và hành động theo chuẩn mực đạo đức được xây dựng trên nền tảng giới luật. Trong đó, năm giới là nền tảng đạo đức vững chãi nhất để bảo vệ hòa bình, an lạc và đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đây là lối sống thiết thực, thể hiện sự bình đẳng, nhân bản, dân chủ và cũng là nền đạo đức chuẩn mực của con người sống trên hành tinh này. Giá trị toàn cầu của nó đã được các nhà đạo đức học, xã hội học, triết học trên thế giới công nhận. Ông Albert Schweitzer, nhà triết học người Đức viết “đức Phật đã sáng tạo ra nền đạo đức nội tâm hoàn thiện qua năm điều răn cấm đầu tiên của Ngài và là một trong những nhà đạo đức học vĩ đại kỳ tài nhất mà thế giới có được”.
Thật vậy, không sát sanh là nuôi dưỡng lòng từ bi, tôn trọng lẽ công bằng nhân đạo đối với đồng loại và tất cả chúng sanh, nhờ đó mà xua tan bóng tối sân hận và ganh ghét. Trong tâm thức mỗi người nếu thiếu căn bản đạo đức này, dù có nói đạo đức cao siêu đến đâu cũng chỉ là lời nói suông, là người mất nhân tính và hủy hoại lương tri. Bởi vì “Ai cũng sợ gươm đao, ai cũng thích sống còn.” Bởi vì, khổ đau do sự sát hại gây ra, nếu chúng ta biết phát triển lòng từ bi, lấy đó làm nguồn năng lượng để bảo vệ con người, cỏ cây, cầm thú, và đất đá, thì khả năng làm vơi nhẹ và chuyển hóa khổ đau rất lớn. Khi thấy được nỗi khổ thì tâm Bi phát sinh trong ta. Với tình thương, năng lượng của chúng ta được sinh ra từ tuệ giác. Khi chúng ta không có sự hiểu biết đúng đắn về một hoàn cảnh hay một con người, suy nghĩ của ta có thể lầm lạc và gây ra hoang mang, tuyệt vọng, giận hờn, hay thù hận. Vì thế, chúng ta luôn nuôi dưỡng chánh niệm mỗi ngày và tưới tẩm những hạt giống bình an trong ta và trong những người xung quanh, ta sẽ trở nên sống động, và có thể giúp cho chính mình cũng như những người khác đạt đến sự bình an. Sự sống thật quý giá, vậy mà trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường bị cuốn theo những quên lãng, giận hờn, và lo lắng, đắm chìm trong quá khứ, và không có khả năng tiếp xúc với sự sống trong giờ phút hiện tại. Khi chúng ta thật sự sống động, những gì ta làm hay tiếp xúc đều là phép lạ. Thực tập chánh niệm tức là quay trở về với sự sống trong giờ phút hiện tại. Khi chúng ta biết trân quý cái đẹp của sự sống, chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì trong khả năng mình để bảo vệ cả cuộc đời.
Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp, và bất công xã hội gây ra, chúng ta thực hành hạnh đại Từ để đem lại niềm vui, sống an lạc cho mọi người và mọi loài. Chúng ta cần phải học nhìn sâu để biết cách biểu lộ lòng Từ ấy. Nếu mỗi người, mỗi nhà đều giữ giới thanh tịnh thì chiến tranh nào xảy ra và hận thù nào sanh khởi. Đó chính là thể hiện cách sống hài hòa với tha nhân, biết chia sẻ niềm vui và nỗi khổ cho nhau. Khi giới “Đạo” được tuân giữ thì thành tựu được lòng tin và mối giao hảo đối với người khác không còn vướng bận nỗi sợ hãi. Hành vi trộm cắp như buôn lậu, tham nhũng, việc khai thác tài nguyên bừa bãi, giết hại loài động vật quí hiếm, là những việc làm phi nhân bản. Cho nên Phật dạy mỗi người cần phải sống trung thực, lương thiện, tuyệt đối không xâm phạm của cải và làm giàu bằng mồ hôi nước mắt của kẻ khác, bằng sự lừa lọc, thiếu đạo đức, bởi chính tác hại của trộm cướp, tham nhũng làm bại hoại đạo đức của con người.
Ngoài quan hệ vợ chồng chính thức, tất cả những quan hệ nam nữ luyến ái khác không xâm phạm gọi là không tà dâm. Không tà dâm là bảo vệ nhân cách của mình, bảo vệ thuần phong mỹ tục, tạo đời sống ổn định về tinh thần. Trong xã hội ngày nay, tầm quan trọng của giới thứ ba như một nhu cầu cần thiết để tránh những căn bệnh hiểm nghèo. Nếu muốn mối quan hệ trong gia đình được ổn định và xã hội an vui thì mọi người nên có quan hệ chính đáng, vừa có tình, vừa có nghĩa.
Không nói dối tức là không nói những lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình hoặc hại người. Nói dối khiến mất lòng tin, thường lo sợ ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Nếu mọi người sống chung đều nói dối lẫn nhau, đó là dấu hiệu của sự tan rã, gia đình ly tán, giá trị đạo đức sẽ không tồn tại. Ngược lại, tất cả mọi người đều sống chân thật, thì xã hội sẽ bớt đi những tệ nạn trộm cắp, tham ô, dối gạt và hạnh phúc luôn ngự trị trong mỗi gia đình, xã hội từ đó sẽ được an bình thịnh vượng.
Không uống rượu, giới này ta không thấy ở các tôn giáo khác. Tuy nghe có vẻ như bình thường, nhưng thực chất nó rất quan trọng. Bởi vì, giới này không những làm cháy gan, thui phổi mà còn là nguyên nhân sanh ra các tội lỗi và làm mất giống trí tuệ. Thuốc độc chỉ giết người trong một đời còn rượu giết người trong hiện tại và tương lai. Thực tế cho thấy, say rượu là nguyên nhân làm tan nhà nát cửa, gây gỗ, đánh chém, tai nạn giao thông, v.v... Công năng của giới này giúp ta luôn làm chủ được chính mình, nuôi dưỡng sự trầm tĩnh, tinh thần được minh mẫn, nhất là tạo cho con người có tác phong đứng đắn, luôn ý thức được địa vị và tư cách của mình, từ đó loại bỏ những hành động xấu ác.
Năm giới của Phật giáo không mâu thuẫn với luật pháp của bất kỳ quốc gia nào. Bởi vì, mục đích của nó là đào tạo con người toàn diện xây dựng thế giới an lạc, hạnh phúc. Năm giới không những là căn bản phạm hạnh mà còn là căn bản cho sự thăng tiến tâm linh, là phương tiện để người tu tập đạt được tâm an lạc, giải thoát mọi khổ đau. Vì vậy, tác dụng của nó vô cùng to lớn đối với tha nhân và xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho cả thế gian và xuất thế gian. Ngày nay, lễ truyền thọ Tam quy, Ngũ giới được tổ chức nhiều lần trong năm, làm nền tảng cho việc giáo hóa nhân sinh. Đây cũng chính là tinh thần nhập thế của đạo Phật.
Như thế, các tôn giáo đều chịu ảnh hưởng tương tác trong xã hội. Nếu đem Ngũ giới của Phật giáo so với Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) của Nho giáo ta thấy có chỗ tương đồng. Với nền tảng trên, Khổng Tử nhằm mục đích xây dựng, đào tạo nên mẫu người nhân nghĩa, có phẩm hạnh tốt, có kiến thức rộng rãi và sự tín nhiệm của người khác, trên tinh thần đó sẽ đạt đến mức chí thiện, hoàn thành nhân cách con người. Rồi lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc trong việc ứng xử với những người chung quanh trong quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, tạo nên một mối giao hảo, góp phần xây dựng xã hội thái bình thịnh trị. Nền tảng ấy xây dựng theo một khuôn mẫu ước lệ, chỉ vì hạnh phúc và đời sống của cá nhân là phần lớn, nên có tính cách không phổ quát. Kim chỉ nam của đạo đức Nho giáo là tích cực vào đời để truyền bá đạo mang lại an vui và hạnh phúc chỉ trong phạm vi giới hạn. Cũng vậy, Nho giáo với phương châm: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Bình thiên hạ để làm chủ thiên hạ, trị quốc để cứu nước được an bình, tề gia để nhà được yên vui hạnh phúc và tu thân để thực hiện các mục đích trên và cá nhân mình được lợi lạc. Tất cả nhằm phục vụ xã hội để xã hội phục vụ lại cho chính mình. Từ đó ta thấy nó mang nặng tính thế gian, không chú trọng về mặt tâm linh, do vậy không thể đưa con người đến giác ngộ giải thoát. Đối với hàng tăng lữ Phật giáo, các ngài đi vào đời hóa độ chúng sanh tuỳ duyên mà bất biến, luôn giữ gìn tịnh giới nghiêm mật. Lấy việc làm lợi ích và đem lại hạnh phúc cho chúng sanh làm pháp tu của mình. Chúng sanh càng khó độ bao nhiêu, các ngài càng tìm phương tiện cứu giúp bấy nhiêu. Từ kết quả đạt được, khiến hành giả thành tựu công hạnh tự lợi và lợi tha. Đây chính là công đức của “Nhiêu ích hữu tình giới”.
Theo Phật giáo Bắc truyền, Giới được phân chia làm ba loại: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới. Về sau, các Luận sư do thấy mối liên hệ biện chứng của ba pháp Giới-Định-Huệ nên đã chia giới thành ba loại khác nhau: Biệt giải thoát giới, Định cộng giới và Đạo cộng giới. Tuy nhiên đối với hàng Thanh văn khi ứng dụng giới vào việc tu tập thì ta thấy có phần sai khác. Thanh văn lấy “Định” làm giới. Do tu tập thiền định, đoạn trừ các lậu hoặc, giới có thể được viên mãn và giải thoát là do định sanh. Tất nhiên, cũng nhờ hành trì Biệt giải thoát giới mà ba nghiệp được thanh tịnh nên quý ngài chẳng những không tạo ác nghiệp mà còn thực hành điều thiện để tăng trưởng giới đức. Đây thuộc hữu lậu giới, chú trọng về phần tự lợi nhiều hơn. Đối với chư vị Bồ-tát, các ngài lấy Tuệ làm giới, chính nhờ quán triệt các pháp vô lậu nên giới thể được viên mãn cụ túc và giải thoát có được là do Tuệ sanh. Ngoài việc tu tập bản thân, các ngài lấy tiêu chí lợi lạc quần sanh làm giới hạnh, cho việc giáo hoá chúng sanh là bổn phận và trách nhiệm của mình. Đây thuộc về vô lậu giới.
Như vậy, trong giáo lý Phật giáo, việc giáo dục là hướng dẫn mọi người sống đời sống đạo đức đúng với chánh pháp. Đó là cách sống mô phạm để người khác tu tập theo. Cũng thế, trong lĩnh vực tâm linh, giới luật là một dấu hiệu của sự chứng đắc tâm thức. Nó không những là phương tiện để cho bản thân người tu tập đạt được tâm hỷ lạc, và tác dụng của nó cũng vô cùng lớn lao đối với tha nhân và xã hội. Lại nữa, Phật giáo xây dựng đạo đức trên nền tảng trí huệ, mà muốn đạt được trí huệ phải lấy giới làm gốc để trau dồi thân tâm. Thiết nghĩ, giới luật căn bản năm giới không chỉ áp dụng đem lại kết quả tốt đẹp cho tăng chúng và hàng cư sĩ tại gia mà còn có thể áp dụng thích hợp cho bất cứ cá nhân nào trong xã hội. Đối với hàng tăng ni trẻ ngày nay, nên phương tiện đưa giới luật vào cuộc đời bằng khí thở đạo đức, bằng thức ăn phạm hạnh và lấy việc tu dưỡng thân tâm làm hành trang để kiến tạo một xã hội an bình và hạnh phúc.

Chú Giải Luật Pali và Hán

Viết bởi Thích Tuệ Giác
 

I)- Sự Tích Giới luật
Thích Nữ Trí Hải soạn dịch - Nhà Xuất bản Tôn giáo Hà Nội. PL. 2549 – DL. 2005

Mục lục
Lời Tri Ân
Dẫn Nhập: Ngũ Thiên Thất Tụ.
Phần Một: Sự Tích Tám Tội Khí.
Phần Hai: Sự Tích 17 Pháp Tăng Tàn.
Phần Ba: Sự Tích 30 Pháp Xả Đọa.
Phần Bốn: Sự Tích 178 Pháp Đơn Đề.
Phần Năm: Tám Pháp Hối Quá.
Phần Sáu: 100 Pháp Chúng Học.
Phần Bảy: Bảy Pháp Diệt Tránh.
PHỤ LỤC: Nguồn Gốc Các Giới Đơn Đề.

Lời Tri Ân
Kính Dâng Giác linh Đại lão Hòa thượng tôn sư.
Kính dâng quí vị tôn túc Ni.
Kính dâng chư thiện hữu tri thức - trong đó có cửu huyền thất tổ, hiện tiền phụ mẫu và chư huynh tỉ muội - những người đã gieo trong tàng thức con những hạt giống tốt lành.
Thân kính tặng Ni chúng Hồng Ân Huế, những pháp hữu đã khơi nguồn cảm hứng trực tiếp cho tác phẩm này, nhân mùa An cư năm Ất Hợi (1995).
Thích Nữ Trí Hải

DẪN NHẬP (Ngũ Thiên Thất Tụ)
Giới luật Tỳ kheo ni gồm 348 giới điều, được gọi là "Ngũ thiên thất tụ.” Trước hết, "thất tụ" là bảy nhóm như sau:
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di
Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn
Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa
Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa
Nhóm 5: 8 pháp Hối quá
Nhóm 6: 100 pháp Chúng học
Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.

Phân loại theo các việc cần phải cấm chỉ không được làm (chỉ trì) hoặc cần phải làm (tác trì) thì có bảy nhóm như trên, gọi là "Bảy tụ", cũng như những chương, điều được nêu trong bộ luật hình sự ở đời. Những việc Phật cấm chỉ không được làm, nếu làm thì phạm, gọi là "chỉ trì tác phạm" như giới sát đạo dâm vọng v.v... Những việc Phật dạy phải làm không được bỏ qua, thì gọi là "tác trì chỉ phạm", ví như những việc Bố tát, Tụng giới, Yết ma, Tự tứ, vân vân.

Nhưng phân loại theo tội phạm và mức độ xử phạt (tỉ như định mức án trong bộ luật hình sự ở đời) thì chỉ có năm mục, gọi là "Năm thiên" đáng nói, đó là:
Thiên 1: Tội Ba la di, là khi phạm vào một trong tám pháp Ba la di nói trên (nặng nhất). Mức xử phạt là đuổi ra khỏi chùa.
Thiên 2: Tội Tăng tàn, là khi phạm một trong 17 pháp Tăng tàn nói trên. Mức xử phạt là sám hối trước hai bộ đại Tăng và hành sám một thời gian, bằng cách làm các việc do Tăng chỉ định.
Thiên 3: Tội Ba dật đề, là khi phạm vào hai nhóm 3 và 4 nói trên. Mức hành sám ngang nhau, nhưng một bên có vật trình ra trước Tăng để xả (nói theo luật pháp ở đời là "có tang vật cần tịch thu") rồi sám hối tội đáng đọa lạc, nên gọi là "Xả đọa.” Còn một bên không có tang vật, nhưng có những hậu quả xấu như mang tai tiếng cho đoàn thể hoặc gây thiệt hại cho người khác, gọi là pháp "Đọa" vì khiến cho người phạm rơi vào những ô nhiễm do tham sân hoặc do đam mê sáu trần cảnh, không đem lại giải thoát.
Thiên 4: Tội Thâu lan giá, là loại tội "non Ba la di, già Tăng tàn" ví như trong pháp Ba la di thứ tám, mà mới phạm có bảy việc, hoặc hai ba bốn việc; hoặc khi cố ý giết mà đối tượng chưa chết, hoặc âm mưu bại lộ, bất thành. Do vậy nên có ba cấp bực Thâu lan giá
Thiên 5: tội Đột cát la, nhẹ nhất nhưng dễ phạm, là khi vi phạm các pháp trong những thiên còn lại (5, 6, 7) gồm hai thứ: "ác tác" (làm bậy) và "ác thuyết" (nói bậy); tựa như loại tội "vi cảnh" trong luật đời.

Sự tích Giới luật được viết sau khi tham khảo:
1. Tỳ kheo ni giới, bản dịch của HT. Trí Quang.
2. Trung bộ kinh ba tập, bản dịch của HT. Minh Châu.
3. Bản dịch bộ "Tứ Phần Tỳ kheo ni Giới bản chú giải" hai tập của Ni sư Phật Oanh, (Thích nữ Trí Hải dịch, 1975).
4. Bản dịch bộ "Luật Ngũ phần" 30 quyển, trong Đại tạng kinh (dịch giả Thích nữ Trí Hải, 1989).
5. "L’enseignement monastique du Petit Véhicule" bản dịch của Thích nữ Tuệ Dung.

Điều đáng nói sau khi xem những sự tích này là, với "con mắt thông suốt ba cõi và tấm lòng nghĩ thấu ngàn đời", đức Phật đã quán sát căn cơ hạ liệt của chúng sinh thời Mạt pháp nên khiến ra có những vị làm hành vi quấy để cho Ngài có dịp chế giới. Người đọc cần phải nghĩ nhớ thâm ân chư Phật Bồ tát, không được có tâm phỉ báng như nói "thời Phật mà còn loạn thế.” Xét cho kỹ, ta vẫn thấy được yếu tố rất đáng kính và dễ thương nơi những vị "Bồ tát nghịch hành" hiện tướng phạm giới này là, họ rất thật thà, không bao giờ chối cãi hay biện hộ cho những việc quấy mình đã làm. Lại nữa, so với một Tăng đoàn đông đảo gồm một ngàn hai trăm năm chục "toàn là những bậc đại A la hán" (được kể trong nhiều kinh) và nhiều vị khác chưa chứng đạo, thì con số hai mươi ba vị Tăng (Lục quần và Thập thất quần), và Nhóm 6 Tỳ kheo ni "làm gương mẫu" cho sự phạm giới quả thực quá ít.
Trong nhiều bộ luật còn kể chuyện Ngài Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta) xuất gia sau khi Phật nhập diệt không bao lâu. Lúc đó có một vị Ni sống tới trên 120 tuổi, bà đã từng được trông thấy Phật và sinh hoạt của chúng Tăng thời Phật. Ưu Ba Cúc Đa xin bà kể cho Ngài và một số Tỳ kheo bạn hữu nghe về đời sống thanh tịnh của Tăng già thời Phật, vì nghe ai cũng chê uy nghi tế hạnh của Tăng chúng bây giờ thua xa thuở Phật còn tại thế. Ni bà hẹn với chúng Tỳ kheo của Ưu Ba Cúc Đa một buổi đến tư thất. Gần tới giờ hẹn, Ni bà treo một bát dầu đầy trên đỉnh cánh cửa đi vào. Khi họ đã vào hết trong phòng và ngồi xuống xin Ni bà kể về uy nghi tế hạnh của Tỳ kheo thời Phật, Ni bà mở lời: "Vào thời Phật, trong chúng Tăng có Lục quần Tỳ kheo là những vị thường bị khiển trách là thiếu uy nghi nhất, nhưng vẫn còn có uy nghi tế hạnh hơn chúng Tỳ kheo bây giờ nhiều lắm. Chẳng hạn, Lục quần Tỳ kheo đẩy cửa đi vào phòng thì sẽ không làm đổ dầu như thế... (bà đưa tay chỉ ra cửa).” Khi Ưu Ba Cúc Đa và đại chúng nhìn theo tay Ni bà chỉ, họ mới trông thấy những giọt dầu rơi trên nền đất, cùng bát dầu đầy treo lửng lơ trên cánh cửa ra vào.
Mỗi giới điều được thâu tóm thành bốn chữ, chỉ cốt để giúp trí nhớ và học thuộc lòng. Muốn rõ nghĩa phải xem nội dung của giới điều và xem sự tích. Khi đọc sự tích, ta có thể thấy rõ nguyên do chế giới và mục tiêu mỗi giới, đồng thời cũng có thể thấy cái tinh thần nằm ở đằng sau chữ nghĩa, vượt trên chữ nghĩa và truyện tích. Có vậy mới thấy Giới luật tuy nhiều mà rút lại không ngoài bốn chữ "thiểu dục tri túc" hay không ngoài hai chữ "tàm quý.” Và có vậy mới thấy 348 giới cũng không thấm gì, Phật dạy bao nhiêu cũng không đủ nếu ta chỉ hiểu trên ngôn từ mà không đạt ý. Do đấy mà có đến ba ngàn uy nghi tám vạn tế hạnh để kiện toàn một con người xứng đáng bậc "Chúng trung tôn.”

Phần Một: Sự Tích Tám Tội Khí (Tám Pháp Ba La Di)
Tóm tắt
1. Làm hạnh bất tịnh
2. Lấy của không cho
3. Sát sinh đủ cách
4. Dối nói đắc đạo
5. Nhiễm tâm xoa chạm
6. Nhiễm tâm tám sự
7. Che giấu tội trọng
8. Theo người bị cử.

1. Làm Hạnh Bất Tịnh
Lúc Phật ở Xá Vệ, có Ngài Tu Đề Na (Sudina) làm hạnh bất tịnh với vợ cũ. Nguyên Tu Đề Na con nhà giàu, đã có vợ, nghe Phật thuyết pháp bèn năn nỉ cha mẹ từ bỏ gia đình theo Phật xuất gia. Cha mẹ bất đắc dĩ phải để cho ông đi tu. Không bao lâu, gặp mùa đói kém Phật cho phép chúng Tỳ kheo tản mác đi khất thực các nơi. Tu Đề Na dẫn một đoàn Tăng chúng về thôn nhà khất thực. Cha mẹ nhân cơ hội ấy năn nỉ Tu Đề Na hoàn tục, Tu Đề Na không chịu; cha mẹ lại năn nỉ Tu Đề Na ở lại với vợ cũ một đêm để ông bà có cháu bế cho vui cửa vui nhà, hơn nữa khi chết còn có người cúng cơm, thờ tự. Tu Đề Na cuối cùng phải xiêu theo. Nhưng khi trở lại trong Tăng chúng, ông cảm thấy bứt rứt, hối hận, khổ sở. Các Tỳ kheo bạn tới hỏi thăm, ông nói thật, và cùng đi đến Phật kể rõ sự tình. Phật quở trách đủ thứ và dạy đó là việc không đáng làm, phi phạm hạnh. Nhân đấy Phật chế giới.
Lời bàn:
Tội Ba la di còn dịch là: "tha thắng", là để cho cái khuynh hướng khác, không phải mình (tự) thắng lướt, làm cho mình không còn là mình nữa. Chính đây là nguồn gốc của mọi pháp tu và giới luât Phật chế: khiến cho con người đừng đi lạc xa cái "tánh thường" của mình, nếu lỡ đi xa một chút thì phải nhớ mà quay trở lại. Khi Phật chưa chế giới thì chưa gọi là "phạm", thế nhưng sau khi Tu Đề Na làm hạnh bất tịnh thì tự thấy hổ thẹn khổ sở. Điều đó chứng tỏ tánh thường của chúng ta vốn tự thanh tịnh, không xen lẫn dâm dục, nên khi làm cái sự gì khác (tha) với tánh thường ấy, thì tâm tự thấy khó chịu.

2. Lấy Của Không Cho
Phật ở Xá Vệ, Tỳ kheo Đàn Ni Ca (Dhanya) con nhà thợ gốm phạm trước tiên. Ông làm một chòi lá trong rừng để ở, một hôm đi khất thực về thấy chòi đã bị những người kiếm củi và chăn trâu phá hết vách mái. Ba lần như vậy, nhớ nghề cũ, ông bèn ra tay nung đất làm gạch xây một cái nhà có mái đỏ chói. Một hôm Phật và chúng Tăng đi qua trông thấy, biết của Tỳ kheo xây, Phật bèn sai Anan tới phá, rồi cấm đệ tử không được tự tay đào đất, nung ngói gạch xây nhà, vừa mất thì giờ hành đạo vừa tổn hại chúng sinh. Đàn Ni Ca khi trở về thấy ngôi nhà ngói cũng bị phá, hỏi ra biết được là do lệnh Phật, ông bèn vào rừng tìm cây để làm nhà gỗ. Quan giữ rừng không cho, nhưng Đàn Ni Ca bảo, Vua đã cho tôi rồi. Quan nói nếu Vua đã cho thì xin Đại đức cứ tự tiện mà chặt đốn. Đàn Ni Ca đốn hết những cây gỗ quý lâu năm. Khi ngự giá qua rừng, trông thấy cây cối ngã nghiêng, những cây gỗ quý dành để tu bổ cung đình đã biến mất, Vua cho đòi quan giữ rừng đến hỏi. Quan tâu, vì thấy Vua một Phật, mà có vị Tỳ kheo bảo Vua đã cho chặt, nên ông đã để cho vị ấy chặt cây. Nhà Vua tức giận cực điểm, cho là quan nói láo, sai bắt nhốt vào cũi giải về cung trị tội. Giữa đường gặp Đàn Ni Ca, ông ta kêu khóc ầm ĩ. Tỳ kheo bảo không sao, để tôi tới bảo cho Vua nhớ, rồi Vua sẽ thả ông về. Tỳ kheo đến thẳng cung Vua, nói: "Vua không nhớ sao, ngày làm lễ đăng quan, Vua có đọc bài diễn văn hứa khi lên ngôi, Vua sẽ cho phép các vị xuất gia tự do hành đạo và xử dụng tất cả những vật cần dùng hiện có trong nước. Bởi thế mà tôi đốn những cây gỗ tôi cần để làm nhà.” Vua ngao ngán. Căn cứ theo luật pháp, tội Tỳ kheo ấy đáng bị xử tử nhưng vì tôn kính đức Phật, nên Vua chỉ mắng cho một trận là "kẻ giặc, kẻ ngu si không biết gì cả, hãy đi đi cho khuất" và đuổi Tỳ kheo về.

3. Sát Sinh Đủ Cách (Giết Hại Mạng Người)
Phật ở Xá Vệ chế giới. Nhiều Tỳ kheo phạm. Bấy giờ vào một mùa An cư, Phật dạy cho chúng Tỳ kheo hành trì pháp môn quán sát 32 uế vật trong thân, cốt để nhàm chán thân thể, trừ ái dục, gọi là quán bất tịnh. Một số đông Tỳ kheo sau khi đắc quả nhờ pháp tu này, đâm ra chán ghét thân thể xú uế bèn đem y bát của mình (tất cả gia tài của một Tỳ kheo thời Phật) thuê một người đồ tể giết giùm cái thân. Trong một ngày mà trong vườn Cấp Cô Độc có đến sáu mươi người chết theo cách ấy. Khi giải hạ, thấy số chúng đến yết kiến Phật giảm thiểu, hỏi nguyên do, Phật bèn quở trách sự hủy hoại thân thể. Thay vì quán bất tịnh, bấy giờ Phật dạy các Tỳ kheo quán hơi thở và các pháp "quán tịnh" như quán màu sắc các loại hoa xanh vàng đỏ trắng, hư không, ánh sáng... gọi là quán "biến xứ" hay kasina. Đồng thời Phật cho biết, các vị A la hán ấy hủy hoại thân thể là do dư báo của nghiệp "sát" lâu xa về trước, đến khi đắc quả họ vẫn còn phải thọ báo lần cuối cùng. Tất cả những vị ấy xưa kia đều đã từng làm nghề đồ tể giết hại súc sinh.

4. Dối Nói Đắc Đạo (Đại Vọng Ngữ)
Phật chế giới này lúc ở thành Tỳ Xá Ly, trong giảng đường lâu các bên sông Di Hầu. Gặp thời đói kém, vào ngày Tự tứ, chư Tăng đến đảnh lễ Phật. Ai cũng gầy ốm xanh xao vì suy dinh dưỡng, nhưng đặc biệt có một tốp Tỳ kheo mập mạp hồng hào. Khi Phật hỏi cách sinh hoạt tu hành của họ trong mùa An cư ra sao, khất thực có dễ kiếm hay không, họ bạch: "Dạ bạch Thế Tôn, dễ lắm. Vì chúng con thay phiên nhau để một người ngồi thiền giữa công cộng, trong khi những người kia thì đi khắp nơi quảng cáo rằng vị ấy chính là một bậc A la hán, ai cúng dường vị ấy sẽ được phước lớn lao. Thiên hạ đua nhau đem thực phẩm thượng hạng tới cúng, do vậy chúng con khất thực không khó khăn gì cả.” Phật quở trách thậm tệ cái thói vì y thực mà dối xưng thần thánh ấy, và chế giới.

Phụ:
Nhân đây Phật kể cho chúng Tỳ kheo nghe chuyện về Hoàng hậu Vua Ba Tư Nặc. Trước đây bà vốn là một nữ tì giữ việc chăm sóc vườn lài cho một nhà giàu. Một hôm, sau khi cúng dường phần ăn sáng của mình cho một Sa môn khất thực, nữ tì gặp Vua Ba Tư Nặc đi vào vườn hoa. Nàng ân cần đón tiếp, khiến ông Vua hài lòng đến độ ngay hôm ấy, Vua cho mời ông trưởng đến để ngỏ ý muốn bỏ tiền chuộc nữ tì đưa về hoàng cung. Sau khi về cung, Vua lại còn phong ngay cho nàng làm đệ nhất Phu nhân, gọi là Mạt Lợi Phu nhân (Mallika hay Cô Gái Vườn Lài). Khi được làm Hoàng hậu, Mạt Lợi Phu nhân nhớ đến vị Sa môn bà đã cúng dường buổi sáng cùng ngày gặp đức Vua, và muốn cho đi tìm Ngài. Khi hỏi ra mới biết vị Sa môn mà bà đã cúng dường đó chính là Đức Phật. Bà liền đến nơi Đức Phật xin đảnh lễ quy y, và trở thành một Phật tử.
Một hôm bà đi đến Đức Thế Tôn để hỏi Ngài do nhân gì đời trước mà nay bà được cái phước được gặp Đức Thế Tôn và lại được làm Hoàng hậu. Phật kể, vào một tiền kiếp xa xưa, bà làm một phụ nữ giàu mộ đạo, ham làm phước và cầu mong được gặp bậc minh sư. Vào một mùa đói kém khất thực khó khăn, trong xứ bà ở có bỗng có một nhóm năm vị Sa môn đến thay nhau tọa thiền ngoài công viên, bà đến đảnh lễ và rước về nhà cúng dường tứ sự. Năm vị này không có giới đức, chỉ hiện tướng Sa môn để thụ hưởng của bà, đồng thời đi các nơi dối gạt mọi người để thủ lợi, làm cho ai cũng nghĩ họ là thần thánh, cúng dường trọng hậu. Do nhân ấy mà trải qua nhiều đời kiếp, họ phải làm thân nô tì để trả nợ cũ. Còn cô gái, do nhân cúng dường với tâm thanh tịnh và lòng khao khát cầu gặp minh sư, mà nay được cái phước gặp Phật và ở địa vị cao sang.
Nghe Phật dạy, Mạt Lợi Phu nhân tò mò hỏi: "Bạch Thế Tôn, vậy ra nhờ cúng dường năm Sa môn ấy mà nay con được gặp Phật. Thế thì con rất muốn gặp lại các Ngài để đền ơn. Xin Thế Tôn cho con được biết hiện nay những vị ấy tái sinh chỗ nào?" Phật dạy: "Họ ở ngay bên cạnh bà! Đó là năm tên đầy tớ của bà hiện nay, làm các công việc đánh xe, nấu bếp, giặt ủi..."
Nghe Phật dạy, Hoàng hậu khóc ròng: "Bạch Thế Tôn, con thực đã gây tội lỗi tầy trời! Đối với những bậc tôn sư đã đem lại cho con cái phước báo ngày nay, con đã không tôn kính cúng dường mà lại thường sai sử đánh mắng.”
Phật an ủi bà: "Không phải lỗi tại bà, đó là quả báo mà các ông ấy phải gặt mà thôi.”
Hoàng hậu nói: "Bạch Thế Tôn, nhưng khi đã biết như vậy, thì con cũng không thể nào tiếp tục sai khiến chúng được nữa. Con sẽ cho gọi chúng đến để trả tự do, và xin đức Thế Tôn thuyết pháp cho chúng.”
Thế rồi bà cho gọi bốn người đánh xe trong đoàn tùy tùng như Phật đã chỉ. "Bạch Thế Tôn, còn một người nữa ở đâu?”
- "Còn ở trong cung, đang lau chùi nhà tắm.”
Hoàng hậu đau buồn cho gọi đủ năm tên đầy tớ đến. Khi đến, muốn tránh Phật, tất cả năm người đều đứng nấp sau cánh cửa. Phật dùng thần lực khiến cho họ xoay về hướng nào cũng thấy Ngài đứng ngay trước mặt. Khi đã xoay đủ chiều mà không tránh nổi, họ bưng mặt khóc: "Chúng tôi khổ sở đủ điều mà Sa môn này còn nhiễu loạn chúng tôi!”
Phật thu nhiếp thần lực, ôn tồn bảo: "Cũng chính các con tự làm tự chịu đấy thôi.”
Năm tên nô lệ nói: "Làm đầu tắt mặt tối mới có được bát cơm ăn, chừng nào mới hết nỗi khổ này!”
Hoàng hậu bèn lên tiếng: "Thôi ta trả tự do cho các người, khỏi làm nô lệ nữa.”
Năm tên nô lệ đồng loạt quỳ mọp dưới chân Hoàng hậu mà khóc lóc: "Tâu lệnh bà, chúng con có lỗi lầm gì xin lệnh bà cứ hành phạt sao cũng được, nhưng xin lệnh bà đừng đuổi chúng con. Chúng con muốn phục dịch hầu hạ lệnh bà mãi mãi!”
Phật dạy cho Mạt Lợi Phu nhân biết, khi chưa trả hết nợ thì năm tên nô bộc ấy vẫn còn ở lại, dù bà có hành hạ xua đuổi chúng đến đâu. Nhưng đến khi đã trả hết nợ cho bà thì dù bà không nói, chúng cũng sẽ tự động ra đi. Mạt Lợi Phu nhân thấm thía lời Đức Thế Tôn dạy, đảnh lễ rồi xin cáo từ.

5. Nhiễm Tâm Xoa Chạm
Phật ở Xá Vệ chế giới. Thâu La Nan Đà phạm đầu tiên.
Trưởng giả Đại Thiện Lộc Lạc có tình ý với Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà, nên vì cô này mà thỉnh đại chúng về nhà thọ trai. Ni cô này cũng để ý Trưởng giả, đến ngày thọ trai cô làm bộ ốm, ở lại trong chùa không đi. Tới giờ ăn, Trưởng giả đến chùa gặp Thâu La Nan Đà làm các việc như trên. Khi đại chúng thọ trai trở về, Sa di Ni giữ chùa bạch chúng việc Thâu La Nan Đà đã làm, nội vụ cuối cùng được trình lên Phật. Sau khi quở trách Thâu La Nan Đà xong Phật chế giới Ba la di thứ 5.

6. Nhiễm Tâm Tám Sự
(Tám sự là: có tâm ô nhiễm mà nắm tay, nắm áo, vào chỗ vắng, đứng chung, đi chung, xúc chạm, dựa kề, hò hẹn - với nam) Phật ở Xá Vệ chế giới: Thâu La Nan Đà phạm đầu tiên, cùng với Sa Lâu Lộc Lạc.

7. Che Giấu Tội Trọng
Phật ở Xá Vệ chế giới; Thâu La Nan Đà bao che cho em ruột là Đề Xá phạm tội Ba la di, sau cô này bỏ đạo hoàn tục cô kia mới nói mình đã biết chuyện đó từ trước, nhưng không nói cho chúng Tăng biết vì sợ xấu lây.

8. Theo Người Bị Cử
Phật ở thành Tỳ Xá Ly chế giới. Tỳ kheo ni Ủy Thứ phạm đầu tiên.
Xiển Đà (Channa) trong chúng Tỳ kheo phạm nhiều tội như ăn biệt chúng, v.v... bị Tăng Yết ma quở trách, Tăng chưa làm pháp Yết ma giải tội. Ông đến chùa Ni và được em gái là Tỳ kheo ni Ủy Thứ giúp đỡ mọi sự. khi bị Tăng quở trách. Cô còn nói: "Đấy là anh ruột tôi, không giúp đỡ lúc này thì lúc nào mới giúp.”

Phần Hai: Sự Tích 17 Pháp Tăng Tàn.
Tóm tắt
1. Làm người mai mối.
2. Vu khống tội nặng.
3. Xuyên tạc tội nặng.
4. Đi thưa kiện người.
5. Biết giặc mà độ.
6. Giải cho tội trọng.
7. Phạm vào bốn sự.
8. Nhiễm tâm thọ thực.
9. Khuyên thọ nhiễm thực.
10. Phá Tăng hòa hiệp.
11. Hỗ trợ phá Tăng.
12. Hoen ố tín đồ.
13. Không nghe can gián.
14. Thân nhau giấu tội.
15. Xúi đừng ở riêng.
16. Giận bỏ Tam bảo.
17. Chê bai chúng Tăng.

1. Làm Người Mai Mối.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Tỳ kheo Ca La phạm đầu tiên. Ông giỏi về khoa bói toán, nên nhiều Cư sĩ đến nhờ ông coi ngày coi tuổi để dựng vợ gả chồng cho con cái họ. Ông nhờ thế mà được nhiều người thân cận cúng dường. Nhưng có những cặp vợ chồng sau khi cưới nhau gặp rắc rối, cơm không lành canh không ngọt, hò bèn đến chùa mắng vốn. Các Tỳ kheo bạch Phật.

2. Vu Khống Tội Nặng.
Phật ở Xá Vệ chế giới này. Tỳ kheo Tư Địa phạm. Lúc ấy Đạp Bà Ma La đã chứng quả A la hán, phát nguyện làm tri sự phân phối phòng ốc, đồ nằm và cử Tăng theo thứ tự thọ thực tại các nhà Cư sĩ. Vào ngày kết hạ An cư, Tư Địa đến vườn Cấp Cô Độc lúc trời đã tối, chư Tăng đến trước đã yên chỗ. Chỉ còn môt chỗ nghỉ tồi hơn các chỗ khác, Đạp Bà Ma La đưa Tư Địa đến đấy và phân phối mền chiếu cũ cho ông. Tư Địa tức giận, nghĩ Đạp Bà Ma La còn đồ tốt mà muốn chơi xấu mình. Sáng hôm sau, ông lai được phiên thọ thực tại một nhà Cư sĩ giàu có, nhưng lại cúng toàn thực phẩm dơ. Nguyên vì Tỳ kheo Tư Địa mang tiếng xấu trong giới Cư sĩ, nên khi nghe ông được cắt phiên đến nhà ấy thọ thực, chủ nhà bèn đổi ý định cúng thực phẩm thượng hạng, mà chỉ cúng những thứ hạng nhì hạng ba. Tư Địa lại nghi Đạp bà la ma xúi, nên ôm hận trong lòng. Để trả thù, ông đến chùa Ni gặp cô em gái là Di Đa La nhờ cô này vu khống cho Đạp Bà Ma La phạm giới dâm dục, làm hạnh bất tịnh với mình. Giữa đại chúng, trước sự vu khống của Ni cô, Tôn giả Đạp Bà Ma La chứng tỏ sự thanh tịnh của mình bằng cách xòe ngón tay út phát ra ánh sáng và bạch Phật: "Bạch Đức Thế Tôn, từ khi cha sinh mẹ đẻ, dù trong mộng con cũng chưa từng có một ý niệm nhiễm ô đối với phụ nữ, huống hồ là phạm giới bằng thân hay lời.” Đức Phật xác chứng cho lời nói của Tôn giả, quở trách hai anh em Tư Địa và Di Đa La Ni đủ điều rồi chế giới: Không được vu khống vô căn cứ, muốn cử tội nặng của người nào, phải đủ chứng cớ rõ ràng gồm ba sự là thấy, nghe và nghi.

3. Xuyên Tạc Tội Nặng.
Phật chế giới này lúc ở Xá Vệ. Tư Địa sau khi bị Phật quở trách tội nhờ em gái vu khống cho Đạp Bà Ma La, bèn tìm cách khác để phỉ báng. Một hôm xuống đồi, trông thấy hai con dê, từ đấy ông bèn nảy ý đặt tên cho dê cái là Di Đa La và dê đực là Đạp Bà Ma La, rồi tuyên bố giữa chúng Tăng: "Tôi đích thân thấy Di Đa La và Đạp Bà Ma La hạnh dâm dục, phạm hạnh bất tịnh. Chứng cớ rõ ràng, không phải là tội Ba la di vô căn cứ đâu.” Khi Tăng hỏi ông đã thấy trong trường hợp nào và ở đâu, ông đáp lúc đi xuống đồi, ngay trên bãi cỏ lúc chúng đang cùng ăn cỏ với nhau. Đại chúng nghe lạ tai, bèn hỏi tiếp mới vỡ lẽ đấy là hai con dê được Tư Địa đặt tên. Như vậy gọi là lấy một chút cớ nhỏ ("thủ phiến") thuộc về chuyện khác ("ư dị phận sự trung", như để, người trùng tên) để vu oan cho người.

4. Đi Thưa Kiện Người.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Có một Cư sĩ cúng đất cho Ni chúng làm chùa, một thời gian sau Ni chúng bỏ chỗ ấy đi dựng chùa nơi khác, chỗ cũ thành một đám đất hoang. Con của Cư sĩ đến canh tác, liền bị Ni đi kiện. Quan xử cho Ni được kiện và tịch biên tài sản của người con Cư sĩ. Nhiều người bàn tán chuyện này đến tai Phật, Phật chế giới. Sau đó một trường hợp tương tự xảy ra là, Ni chúng bỏ chùa đi vắng Cư sĩ chủ chùa bèn đem chùa cúng cho một nhóm Phạm chí ngoại đạo. Nhiều kẻ thấy vậy bất bình, đưa việc ấy ra tòa. Ni chúng sợ phạm giới Phật chế không dám đi. Vì thiếu nhân chứng nên tòa xử cho Phạm chí được kiện, Ni chúng bị mất chùa. Phật chê tòa xử bất minh và nhân đấy chế lại giới này, cho phép nếu tòa mời hay có việc chính đáng thì Tỳ kheo được phép đến cửa quan.

5. Biết Giặc Mà Độ.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Có những nam nữa dòng họ Ly Xa (Licchavi) vào rừng cắm trại, bị một cô gái điếm ăn trộm hết bảo vật rồi chạy vào trốn trong chùa Ni, xin cạo tóc xuất gia. Khi quan quân truy nã bắt được, bèn chê bai Ni chúng đồng lõa với bọn trộm cướp.

6. Giải Cho Tội Trọng.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Tỳ kheo ni Ủy Thứ phạm tội bị chúng Tăng quở trách chưa hành sám mà Thâu La Nan Đà vì tình riêng, đưa ra ngoại giới làm phép giải tội cho cô này.

7. Phạm Vào Bốn Sự.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Hai Tỳ kheo là Thâu La Nan Đà và Sai Ma thường phạm bốn việc là một mình qua sông, một mình vào xóm, một mình ngủ lại và một mình đi sau, khi được hỏi lý do thì các cô bảo "để gặp nam tử.” Các Tỳ kheo ni thiểu dục quở trách và trình lên. Phật chế giới Tỳ kheo ni không được làm bốn việc một mình ấy, để đề phòng chỉ trích và hỗ trợ phạm hạnh.

8. Nhiễm Tâm Thọ Thực.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Ni cô tên Đề Xá Nan Đà có nhan sắc, thường tới nhà một ông Trưởng giả để khất thực. Ông này cúng cho cô nhiều thực phẩm hảo hạng trong một thời gian dài, cuối cùng một hôm nọ khi vào khất thực, cô bị ông ta ôm chầm lấy. Ni cô la làng. Khi mọi người kéo tới, ông Trưởng giả phân bua: "Tôi có ý muốn mua cô này về làm vợ bé đã lâu, nên cúng dường trọng hậu. Số tiền tôi bỏ ra bấy lâu cho cô đã đủ mua một nàng hầu.”
Mọi người hỏi Ni cô: "Ni cô có biết ông này có tình ý với cô hay không?”
Đề Xá đáp "Biết.”
Mọi người bĩu môi chê trách: "Biết sao còn nhận đồ cúng của ông ta? Biết sao còn rộng họng la lớn thế.”
Ông Trưởng giả sai người trói Ni cô lại, chừng nào có tiền đem hoàn đủ số mới thả về. Cô khóc lóc thảm thiết. Chợt có một nhóm thương gia ở đâu tình cờ đi qua, trông thấy Ni cô bị hành hạ, bèn bảo ông Trưởng giả: "Chớ đụng vào những của nợ ấy. Đấy là những đệ tử của Đức Thế Tôn mà tất cả Vua, đại thần đều kính trọng, ai khôn hồn thì đừng dây dưa tới họ, coi chừng mang hoạ.”
Tất cả mọi người đều tin lời thương gia vì năng đi đây đi đó biết nhiều hiểu rộng, bèn cởi trói thả cho Đề Xá ra về, còn hăm he: "Liệu hồn, sau đừng dẫn xác tới đây nữa.”

9. Khuyên Thọ Nhiễm Thực.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Một Tỳ kheo ni lớn tuổi có một đệ tử nhan sắc mỹ miều thường đem đồ khất thực ngon về cho bà dùng. Trải qua một thời gian dài, bà chuyên được thực phẩm hảo hạng do Ni cô khất thực về dâng. Nhưng sau đó, thực phẩm Ni cô đem về càng ngày càng tệ; bà Thầy nuốt không xuống (vì đã quen ăn ngon) bèn hỏi Ni cô: "Trước đây ngươi thường xin được toàn đồ ngon không, tại sao sau này ngươi đem về tinh ròng những thứ ma chê quỷ hờn thế?”
Ni cô thực tình kể: "Bấy lâu có một ông nhà giàu thường cúng cho con toàn thực phẩm hảo hạng. Một hôm cúng xong ông ta hỏi, cô có biết tại sao tôi cúng dường cho cô không? Con trả lời, thí chủ cho tôi là vì muốn cầu phước chứ còn vì sao nữa. Ông Trưởng giả nói không phải, vì tôi yêu Ni cô đấy thôi. Chính vì ông Trưởng giả nói như vậy, nên từ đấy con không tới nhà ông ta để khất thực nữa, vì Phật đã chế giới không được nhiễm tâm nhận đồ ăn.”
Bà Thầy nghe xong nói: "Người kia có nhiễm tâm hay không mặc kệ, miễn sao ngươi không có nhiễm tâm là được rồi, sợ nỗi gì. Họ đã cho đồ ăn thì cứ tới mà nhận đi chứ.”
Cô đệ tử cãi lại: "Phật đã chế giới xuất gia phải thiểu dục tri túc, sao Thầy đã không khuyên con những điều tốt đẹp, lại còn vì thức ăn mà xúi con làm bậy?”
- "Có gì là bậy? Ta có xúi ngươi phạm giới đâu cà?”
Hai Thầy trò cãi nhau càng lúc càng hăng, đến tai những vị khác, cuối cùng trình lên Phật. Phật xử cho Ni cô đệ tử nói có lý, và quở trách bà Thầy tham xơi ngon xúi bậy.
Câu chuyện này chứng tỏ tinh thần bình đẳng trong Phật giáo. Liên hệ Thầy trò trong giáo lý Phật thường được đề cao hết mực, bậc Thầy đôi khi còn quan trọng hơn Tam bảo, vì nhờ Thầy mà ta biết đến Tam bảo. Nhưng không phải vì thế mà người đệ tử trở thành mù quáng vô trách nhiệm đối với bản thân, mọi sự đều nhất nghe theo Thầy. Vì ngoài bậc Thầy còn có Chánh pháp và lương tâm của mình là những tiêu chuẩn để phân biệt phải quấy; nếu Thầy nói những lời mà mình xét không thích hợp với chánh pháp hoặc với lương tâm, thì có thể trình bày lý do bất tuân mà không sợ phạm tội hỗn láo hay phản Thầy.

10. Phá Tăng Hòa Hiệp.
Phật ở Xá Vệ, Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) phạm đầu tiên. Đề Bà Đạt Đa ganh tị với uy thế của Phật, cố dựa thế lực của chính quyền vua A Xà Thế để tự xưng Phật và lập riêng một Tăng đoàn có quy luật khắc khe hơn Giới luật Phật chế, như phải khất thực suốt đời không được nhận lời mời ăn tại nhà Cư sĩ, phải suốt đời mặc y phấn tảo (lượm vảo bỏ đống rác mà mặc) vân vân. Một số Tăng khoái khổ hạnh quá khích đi theo Đề Bà Đạt Đa.

11. Hỗ Trợ Phá Tăng.
Phật ở Xá Vệ chế giới, nhóm đi theo Đề Bà Đạt Đa phạm tội này.

12. Hoen ố Tín Đồ.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Hai Tỳ kheo Mã Túc và Mãn Túc ở chung tại một thôn xóm giao du với Cư sĩ, làm nhiều việc phi pháp, không có uy nghi, tiếng đồn đến tận vườn Cấp Cô Độc. Phật sai Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến nơi cử tội hai Tỳ kheo làm hoen ố tín đồ. Vì chưa bao giờ trông thấy vị Tỳ kheo nào khác ngoài hai ông ấy, nên khi Xá Lợi Phất Mục kiền kiên đến, cư dân trong vùng bảo nhau: "Hai ông này không nhanh nhẩu hoạt bát gì cả, cũng không thân mật vui vẻ với mình, khác xa hai vị ta thường cúng. Người gì đâu mà đi khất thực thì cứ lầm lì chằm bẵm không cười không nói, chán thấy mồ.” Làm cho người ta có một hình ảnh sai lạc về Phật Pháp Tăng như vậy, gọi là hoen ố tín đồ hay làm dơ nhà người, "ô tha gia.”

13. Không Nghe Can Gián.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Tỳ kheo Xa Nặc (Channa, có chỗ dịch âm là Xiển Đà) một trong Lục quần, ỷ dòng họ cao sang, không nghe lời chúng Tăng can gián, còn bảo: "Đáng lẽ tôi dạy các vị mới phải chứ, sao các vị lại dạy tôi. Tại sao? Chư vị thuộc đủ các giai cấp, thuộc nhiều dòng họ (bách tánh) tụ họp lại đây, trong khi đó dòng họ của tôi thì thù thắng hơn tất cả chư vị. Vậy, các vị chẳng nên đem lời khuyên can tôi, tôi cũng không khuyên can gì các vị.” Các Tỳ kheo đến bạch Phật, Phật quở trách Xiển Đà rồi chế giới.

14. Thân Nhau Giấu Tội.
Phật ở Xá Vệ, hai Tỳ kheo ni Tô Ma và Bà Phả Di ở chung trong một thôn xóm, thân nhau, sinh hoạt không khác gì người thế tục, bị đời chê bai phỉ báng đến tai Phật.

15. Xúi Đừng ở Riêng.
Phật ở Xá Vệ, Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà xúi Tô Ma, Bà Phả Di đừng nghe lời chúng Tăng mà ở riêng.

16. Giận Bỏ Tam Bảo.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Nhóm 6 Ni phạm đầu tiên.

17. Chê Bai Chúng Tăng.
Phật ở Xá Vệ chế giới. Nhóm 6 Tỳ kheo phạm lỗi, Tăng chúng quở trách thì chống cự không phục tùng.
Phật nhân đấy để chuyện về mục đồng tên Hoan Hỉ thường đến nghe pháp. Vào thời Phật Ca Diếp, mục đồng ấy đã làm một vị Tỳ kheo tinh thông ba tạng, có tài phân xử. Một hôm có hai Tỳ kheo đền nhờ ông xử đoán một việc tranh chấp, ông vận việc nên giới thiệu họ đến nhờ chúng Tăng phân xử. Khi xong việc trở về, nghe thuật lại cách phân xử của Tăng, ông bèn chê: "Chúng Tăng xử đoán việc như thế không khác gì lối xử của bọn chăn trâu.” Do lời nhục mạ ấy mà ông phải làm kẻ chăn trâu nhiều đời kiếp.

Phần Ba: Sự Tích 30 Pháp Xả Đọa. (Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề)
Tóm tắt
1. Hạn giữ y dư (10 ngày)
2. Lìa y mà ngủ
3. Hạn cất vải dư (1 tháng)
4. Xin y không thân
5. Nhận vải quá phần
6. Xin thêm tiền y
7. Khuyên chung tiền lại
8. Đòi quá 6 lần
9. Cầm giữ tiền của
10. Mua bán bảo vật
11. Bán mua đổi chác
12. Xin bát quá phần
13. Không thân xin nhờ
14. Bảo thợ dệt thêm
15. Cho rồi đọat lại
16. Cất chứa nhiều đồ
17. Giữ y cúng gấp
18. Xoay nhiều về một
19. Đòi vầy đòi khác
20. Pháp đường thành y
21. Xoay một về nhiều
22. Cúng vầy xoay khác
23. Xin vầy xoay khác
24. Chứa nhiều bát tốt
25. Chứa nhiều đồ đẹp
26. Không cho bệnh y
27. Dùng y phi thời
28. Đổi rồi đòi lại
29. Áo dày quá giá
30. Áo mỏng quá giá

1. Hạn Giữ Y Dư (10 Ngày)
Phật ở Xá Vệ chế giới Tỳ kheo không được giữ quá 3 y. Vào một mùa An cư, Tôn giả A Nan được cúng dường một tấm y ca sa đẹp. Ngài đã có đủ y, nhưng muốn giữ cái y này để dành cúng Tôn giả Ca Diếp đang An cư xa chưa về, mà lại sợ phạm giới bèn đến bạch Phật. Phật hỏi: "Ca Diếp chừng nào về đến?"
A Nan thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, khoảng mười ngày nữa.”
Phật bèn chế giới hạn cho phép chứa y dư là trong vòng 10 ngày, quá hạn ấy phải bạch Tăng để làm phép "tịnh thí.” Tịnh thí có hai loại, là "chân thật tịnh thí" và "triển chuyển tịnh thí.” Loại một là cho đứt một người nào chưa đủ ba y. Loại hai là sau khi bạch chúng để xả y dư, đương sự nói lên tên người mình muốn cho, rồi mỗi khi cần dùng những y ấy, thì phải mượn. (Theo HT Trí Quang).
Theo Ni sư Phật Oanh thì trong pháp "chân thật tịnh thí" đương sự phải hỏi chủ mới được mặc, còn "triển chuyển" thì khỏi cần hỏi cũng mặc được, không phạm.
Chân thật tịnh thí thì ở giữa chúng, đương sự tác bạch với một vị như sau: "Bạch Đại đức, tôi có y dư này chưa làm pháp tịnh thí, nay muốn thanh tịnh nên xả cho Đại đức.”
Triển chuyển tịnh thí thì bạch:
"Bạch Đại đức, tôi có y dư chưa làm pháp tịnh thí, nay muốn thanh tịnh nên xả cho Đại đức. Xin Đại đức triển chuyển tịnh thí giùm tôi.”
Vị thọ tịnh trong trường hợp này nên nói:
"Đại đức, xin nghe cho. Đại đức có y dư, chưa tác tịnh, vì muốn thanh tịnh nên cho tôi, tôi sẽ nhận.”
Nhận xong lại hỏi:
"Nay Đại đức muốn tôi chuyển cho ai?” Đương sự đáp: "Cho vị tên Cột.”
Vị thọ tịnh nên nói:
"Đại đức, xin nghe cho. Y dư của Đại đức chưa tác tịnh, vì muốn thanh tịnh nên cho tôi. Nay tôi nhận để cho vị tên Cột. Nhưng vị tên Cột đã có đủ y, vậy Đại đức nên vì Cột mà giữ gìn y ấy, khi cần thì cứ lấy mà mặc.”

2. Lìa Y Mà Ngủ
Phật ở Xá Vệ chế giới. Nhóm 6 Tỳ kheo phạm. Một Tỳ kheo trong chùa ngày nào cũng đem nhiều y ra phơi cho khỏi hư mục. Các Tỳ kheo hỏi sao có nhiều y dư không bạch, vị ấy đáp đấy là của Lục quần Tỳ kheo nhờ giữ hộ để du hành. Phật nhân đấy nhóm Tăng chế giới không được rời y ngủ cách đêm.

3. Hạn Cất Vải Dư (1 Tháng)
Phật ở Xá Vệ chế giới. Sau khi Phật cấm chứa vải (y) dư, một Tỳ kheo có y Tăng già lê bị rách, muốn sắm y khác nhưng chưa có đủ vải, mà không dám giữ những mảnh vải hiện có vì sợ phạm. Phật bèn cho phép nếu có hi vọng được thêm vải để may y, thì cho phép giữ vải vụn chờ được thêm cho đủ. Lục quần Tỳ kheo nhân đấy đi xin nhiều vải vụn đủ loại rồi gởi cho bạn bè mà đi tứ phương, những người bạn này đem nhiều vải ra phơi, các Tỳ kheo biết chuyện bạch Phật. Phật bèn chế giới cho giữ vải vụn trong vòng một tháng phải may thành y, quá hạn ấy mà còn giữ bo bo thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

4. Xin Y Không Thân
Phật ở Xá Vệ chế giới này. Tỳ kheo Bạt Nan Đà có tài ăn nói lưu loát, biết nhiều hiểu rộng, một buổi sáng sớm tình cờ gặp một ông Trưởng giả mặc áp lông cừu sang trọng đi vào vườn Cấp Cô Độc vãn cảnh. Nghe Tỳ kheo nói chuyện quá hay, ông ta phát tâm muốn cúng dường: "Tôi muốn cúng dường Đại đức, Đại đức cần gì xin nói cho tôi biết?”
Bạt Nan Đà muốn trêu ông ta bèn nói: "Điều mà tôi cần, ông không thể nào cho được, nói ra cũng vô ích mà thôi.”
Trưởng giả năn nỉ: "Không hề gì, xin Đại đức cứ nói đi. Tôi sẽ đáp ứng.”
- "Thật không?”
- "Thật.”
Bạt Nan Đà nói: "Tôi cần cái áo lông cừu trên người ông đang mặc.”
Ông Trưởng giả nói: "Cũng được, nhưng xin hãy để đến mai, tôi sẽ cho người mang đến. Vì hôm nay đi dạo sớm, tôi chỉ khoác một cái áo này ra ngoài cho mau.”
Bạt Nan Đà bèn bảo: "Thấy chưa? Tôi đã nói là điều tôi xin, ông không thể nào đáp ứng, thì nay quả nhiên như vậy.”
- "Không phải là tôi không thể cúng cho Đại đức cái áo này, tôi chỉ nói là hãy để đến mai.”
- "Tôi không cần nó ngày mai, tôi cần ngay bây giờ. Ông tiếc của thì cứ nói phứt đi, đừng bày đặt nói loanh quanh để từ chối.”
Bị chạm tự ái, ông Trưởng giả bèn cởi phăng cái y đưa cho Tôn giả rồi hằm hằm ra về. Thấy ông mang giày da sang trọng, vận quần xa tanh dài láng bóng, nhưng mình lại ở trần trùng trục mà tản bộ giữa đường, không ai không ngạc nhiên. Về đến cổng, gia nhân ra chào đón thấy vậy thất kinh hỏi dồn: "Thưa chủ nhân, cái áo cừu đẹp của chủ đâu rồi? Phải chăng chủ đã bị bọn cướp đường trấn lột?”
- "Phải, ta đã bị Sa môn Thích tử trấn lột mất cái áo cừu.” Thiên hạ bu tới biết chuyện, chê bai Tỳ kheo tham cầu không biết chán; dù người ta có cho cũng không nên nhận những vật đắt giá, huống hồ cưỡng bức mà xin. Khi câu chuyện này đến tai Phật, Ngài bèn họp Tăng chế giới: "Với người Cư sĩ không thân, không được xin y.”
Sau khi Phật chế giới này, có một nhóm Tỳ kheo ở xa về thành Xá Vệ thăm Phật, khi đi ngang qua rừng ban đêm bị bọn cướp lột hết y phục, nhưng hôm sau vào xóm làng, họ cũng không dám xin y từ Cư sĩ không quen thân. Cả đoàn trần trụi kéo nhau về vườn Cấp Cô Độc; các Tỳ kheo từ xa trông thấy cứ thưởng là bọn lõa thể ngoại đạo, đến gần mới biết là Tỳ kheo. Tôn giả Ưu Ba Ly bèn cho họ mượn y mặc đến hầu Phật. Phật nhân đấy chế lại giới này, là “trừ khi y bị cướp”, vân vân, thì có thể đến Cư sĩ không thân mà xin y.

5. Nhận Vải Quá Phần
Phật ở Xá Vệ chế giới này. Khi các Tỳ kheo bị cướp sạch hết y phục được phép đi xin y, các Cư sĩ thấy tội nghiệp bèn đua nhau cúng y cho họ. Lục quần Tỳ kheo xúi những vị này nên thừa dịp ấy cứ nhận thật nhiều rồi về cho bớt anh em. Phật bèn chế giới không được nhận quá phần y mình được giữ.

6. Xin Thêm Tiền Y
Phật ở Xá Vệ, Bạt Nan Đà phạm đầu tiên. Các Tỳ kheo đi khất thực nghe một nhà Cư sĩ nọ đang bàn tính chuyện may y cúng cho Tỳ kheo Bạt Nan Đà, bèn về mách lại. Bạt Nan Đà thân hành đi đến nhà ấy, nói: "Lành thay, nghe nói Cư sĩ muốn cúng cho tôi, vậy hãy cúng một tấm y như vậy như vậy...” Thái độ của Bạt Nan Đà làm Cư sĩ bất mãn, nhất là ông đòi một cái y đắt tiền hơn cái giá tiền y mà họ muốn cúng.

7. Khuyên Chung Tiền Lại
Cũng như trên, người phạm là Bạt Nan Đà. Ông nghe lỏm biết có hai nhà Cư sĩ cùng muốn cúng y, sợ họ cúng hai cái y xấu (mà ông có thể phải xả bớt một), ông bèn đến điều đình hai nhà nên chung tiền sắm một cái cho tốt. Cư sĩ chê bai, Phật chế giới.

8. Đòi Quá 6 Lần
Phật ở Xá Vệ chế giới. Bạt Nan Đà được cúng tiền y, giao cho một Cư sĩ giữ. Đến khi cần, ông đi đến Cư sĩ gặp lúc ông này đang bận túi bụi công việc, sắp phải dự một phiên họp hàng năm của các thương gia, ai đi trễ bị phạt năm trăm quan tiền. Cư sĩ giữ tiền của Bạt Nan Đà năn nỉ ông ta chờ đến khi đi họp về sẽ giao tiền may y, nhưng Bạt Nan Đà nhất quyết đòi cho được, cuối cùng ông ta phải về nhà lấy, và do vậy trễ cuộc họp, phải bị phạt. Cư sĩ chê bai: "Tỳ kheo gì mà lại làm cho người ta sạt nghiệp.”

9. Cầm Giữ Tiền Của
Phật ở Xá Vệ, Bạt Nan Đà phạm. Nhân Bạt Nan Đà có vàng do bà vợ một ông đại thần cúng, ông đem vào chợ gửi cho Cư sĩ giữ, bị chê bai. Phật khiển trách và chế giới.

10. Mua Bán Bảo Vật
Phật ở Xá Vệ. Bạt Nan Đà phạm đầu tiên; ông cầm vàng vào chợ bán lấy tiền mua vật thực. Cư sĩ chê bai lên tới Phật. Phật chế giới.

11. Bán Mua Đổi Chác
Phật ở Xá Vệ. Bạt Nan Đà đem vật xin được chỗ này đến chỗ kia trong chợ mà đổi chác. Khi Xá Lợi Phất đi khất thực đến những nơi đã từng đổi chác với Bạt Nan Đà, họ bèn hỏi: "Ông có gì đổi không? Trước đây một Tỳ kheo luôn luôn có thứ này thứ khác để đổi với chúng tôi, nay ông đến tay không thì sao được?" Xá Lợi Phất về bạch Phật, Phật chế giới.

12. Xin Bát Quá Phần
Phật ở Xá Vệ. Bạt Nan Đà làm bể bình bát, bèn đến các nhà Cư sĩ xin. Nhà nào ông cũng khai rằng bát bể, hãy cho tôi một cái mới. Các Cư sĩ ai cũng hoan hỉ cúng dường. Cúng xong gặp nhau họ khoe: "Hôm nay tôi làm được việc phước đức lớn.”
- "Việc gì?"
- "Cúng bát cho Tỳ kheo.”
- "Cúng cho ai?"
- "Đại đức Bạt Nan Đà Thích tử!”
- "Thì tôi cũng vậy.” Khi ấy họ vỡ lẽ Bạt Nan Đà đến nhà ai cũng xin bát, lấy làm bất mãn, chê bai tới tai chúng Tăng.

13. Không Thân Xin Nhờ
Phật ở Xá Vệ. Bạt Nan Đà đi đến các nhà Cư sĩ xin chỉ để dệt y Tăng già lê (đại y). Sau khi xin được thật nhiều chỉ có thể may đến ba cái y, ông đem tới một người thợ dệt không thân nhờ dệt giúp. Thợ dệt trông thấy Tỳ kheo xin quá nhiều chỉ, bèn chê vị ấy tham cầu không chán.

14. Bảo Thợ Dệt Thêm
Phật ở Xá Vệ chế giới. Bạt Nan Đà nghe lỏm có Cư sĩ đang gửi chỉ nơi một thợ dệt để dệt y cho mình bèn tức tốc đến nơi thợ dệt ấy mà hỏi thực hư. Thợ dệt xác nhận, và đưa chỉ người kia cúng cho ông ta xem. Bạt Nan Đà bảo, cứ dệt cho dày, tốt, rồi tôi sẽ trả thêm tiền công cho. Thợ dệt nói có bấy nhiêu chỉ thì dày, tốt gì nổi, phải thêm vào mới đủ. Bạt Nan Đà bèn tới nhà Cư sĩ nọ, nói cái y dệt cúng cho tôi còn thiếu chỉ. Gặp lúc Cư sĩ vắng nhà, bà vợ đưa chỉ tốt cho Tỳ kheo đem đi. Khi thợ dệt giao hàng đến nhà, Cư sĩ thấy cái y có hai thứ chỉ, không như ý mình muốn cúng ban đầu, bèn hỏi vợ mới biết Tỳ kheo đã đến nhà lấy thêm chỉ tốt hơn để giao cho thợ dệt. Cư sĩ nổi giận chê bai phỉ báng.

15. Cho Rồi Đọat Lại
Phật ở Xá Vệ chế giới. Trong vườn Cấp Cô Độc bấy giờ có một Tỳ kheo trẻ tuổi giỏi đi khuyến hóa, thường được cúng nhiều Bạt Nan Đà tặng cho ông này một tấm y để dụ ông ta cùng đi với mình. Sau đó, có nhiều Tỳ kheo khác nói cho Tỳ kheo trẻ biết hoặc Bạt Nan Đà thiếu tư cách, thường bị Phật quở, và khuyên ông ta đừng đi chung. Tỳ kheo trẻ nghe lời, đổi ý không chịu đi theo Bạt Nan Đà nữa. Bạt Nan Đà giận đòi y lại, ông kia nói: "Đại đức đã cho con rồi, sau bây giờ đòi lại?"
- "Ta cho ngươi vì nghĩ rằng ngươi sẽ theo ta. Bây giờ ngươi đổi ý thì hãy trả y lại."
Tỳ kheo trẻ không trả, Bạt Nan Đà dùng vũ lực cưỡng đọat y lại, bị chúng Tăng chê rồi bạch lên Thế Tôn. Phật chế giới đã cho rồi không được đòi lại.

16. Cất Chứa Nhiều Đồ
Phật ở Xá Vệ chế giới này. Tỳ kheo Tất Lăng Già Bà Sa và chúng đệ tử của ông xin được nhiều vật thực, đem về chất đầy một nhà gồm những đồ chứa đủ cỡ, đựng sữa tươi, đường phèn, dầu, bơ… để ruồi bu, kiến đậu. Cư sĩ vào chùa trông thấy chê bai.

17. Giữ Y Cúng Gấp
Phật ở Tỳ Lan Nhã, nhân lục quần Tỳ kheo và Bạt Nan Đà mà chế giới. Thể theo lời cầu thỉnh của một Bà la môn giàu có, Phật cùng chúng Tăng đến thôn ấp của ông mà An cư ba tháng mùa mưa. Sau đó, Bà la môn bị ma ám nên không nhớ gì đến chuyện đã thỉnh Phật. Suốt mùa An cư ấy Phật và chư Tăng phải tạm dùng lúa ngựa để sống qua ngày. Khi sắp mãn hạ An cư, Bà la môn mới nhớ tới chuyện cúng dường, bèn đến sám hối và thỉnh Phật cùng chư Tăng lưu lại ba tháng nữa, nhưng Phật từ chối. Bà la môn năn nỉ xin được có một ngày cúng dường Phật và chúng Tăng y thực. Phật im lặng nhận lời. Bà la môn bèn mang thật nhiều y thực thượng hạng đủ dùng cả ba tháng mà cúng dường Phật và chúng Tăng trong ngày hôm đó để bù lại sự khinh suất của mình vừa qua. Lục quần Tỳ kheo thấy Phật cho phép nhận y trong mùa An cư, bèn đi xin y khắp nơi suốt cả ba mùa, chứa rất nhiều y. Phật cấm đi xin các nơi khác sau mùa An cư, và cấm nhận y khi An cư chưa xong, phải đợi cho đến ngày Tự tứ.
Về sau, có hai viên quan chưa đến mùa Vu lan (còn những mười ngày nữa) đã đến Tinh xá Kỳ Viên xin cúng dường y gấp để đi đánh giặc, vì không kịp chờ đến ngày Tự tứ. Các Tỳ kheo không dám nhận, bạch Phật, Phật nhân đấy chế giới này lần thứ hai, cho phép nhận y cúng gấp trước Tự tứ mười ngày. Quá mười ngày phải bạch trước chúng Tăng để làm phép "chứa y dư", nếu không bạch thì cái y ấy gọi là y phi thời, nghĩa là nhận không đúng lúc. Y nhận đúng lúc, được phép mặc gọi là "thời y" nghĩa là y nhận từ rằm tháng bảy đến rằm tháng chạp (nếu có thọ y công đức).

18. Xoay Nhiều Về Một
Phật ở Xá Vệ chế giới này. Bạt Nan Đà biết một Cư sĩ đang sắm sửa y thực để cúng cho chư Tăng ở Kỳ Viên Tinh xá, bèn tới nhà nói: "Phật và chúng Tăng đã được Vua và đại thần cúng nhiều y sang quý tốt đẹp, chỉ có tôi còn thiếu. Ông cúng chư Tăng thực phẩm là đủ rồi, khỏi cần cúng vải vóc làm gì.” Cư sĩ làm theo lời, chỉ cúng thức ăn. Các Tỳ kheo biết chuyện, bạch Phật. Phật chế giới "không được xoay vậy người ta định cúng chư Tăng về cho một mình mình.”

19. Đòi Vầy Đòi Khác
Phật ở Xá Vệ chế giới. Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà dung mạo xinh đẹp, được sĩ khoái nên cô đòi gì được nấy. Vì quen được chiều chuộng nên cô yêu sách đủ điều, xin thứ này được Cư sĩ đáp ứng xong cô lại đổi ý trả lại, đòi thứ khác. Nhiều lần như vậy, Cư sĩ đâm chán, chê bai đồn đến tai chúng Tăng.

20. Pháp Đường Thành Y
Phật ở Xá Vệ chế giới này. Nhân thấy một chúng Tỳ kheo ni ngồi giữa trời mà Bố tát thuyết giới, Cư sĩ chung nhau tiền đem đến cúng cho Ni để làm một pháp đường (nhà để chư Tăng thuyết giới Bố tát hay giảng Kinh Luật Luận). Chư Ni nhóm họ bàn rằng, làm nhà thuyết giới thì phải trông coi thợ nề thợ một, vật liệu... quá phiền phức, mà mỗi tháng chỉ có hai lần Bố tát là cần dùng đến nhà ấy. Còn y phục thì xin kiếm khó khăn, vậy ta nên đem tiền làm pháp đường mà chia cho chúng may y. Về sau, Cư sĩ lại thấy chư Ni ngồi Bố tát giữa trời, hỏi ra mới biết tiền họ cúng làm nhà giảng đã được phân manh mún chia nhau. Cư sĩ chê bai: "Ai chả biết y phục khó kiếm? Chính vì nghe Phật dạy làm pháp đường cúng cho tứ phương Tăng hành đạo thì được phước vô lượng, chúng ta mới đem tiền đến cúng làm pháp đường chứ.” Giới này bao hàm sự "xoay vật cúng cho tứ phương Tăng thành ra hiện tiền Tăng trong chùa.”

21. Xoay Một Về Nhiều
Phật ở Xá Vệ chế giới. Bấy giờ các Tỳ kheo ni ở Xá Vệ nghe nói Ni sư An Ổn sắp đến, họ bèn đi khắp thành phố xin tứ sự cho Ni sư. An Ổn là một Ni sư có danh tiếng thời bấy giờ, nên nghe nói duyên cho Ni sư An Ổn thì Phật tử mộ đạo ai cũng hoan hỉ cúng dường trọng hậu đủ thứ cần dùng. Nhưng rốt cuộc chờ cả tháng Ni sư không đến, chư Ni bèn đem phân chia cho chúng tất cả những gì đã quyên cho bà An Ổn. Chia xong thì An Ổn là dò đến, không có vật dụng bà ôm y bát vào thành để khất. Các Cư sĩ thấy, bèn tới chùa hỏi: "Những vật thực và đồ dùng chúng tôi cúng cho Ni sư ấy đi đâu cả rồi?” Các Tỳ kheo ni cứ thật trình bày, Cư sĩ chê bai đủ điều, tới tai chúng Tăng, Tăng bạch Phật. Phật chế giới "hồi tác dư dụng" này, bao hàm sự "xoay đồ cúng cho một người về cho nhiều người" hay cả chúng, nghĩa là lợi dụng danh nghĩa một vị có tên tuổi để đi xin, rồi mang về phân chia cho nhiều người khác.

22. Cúng Vầy Xoay Khác
Phật ở Xá Vệ, nhân Ni An Ổn phạm mà chế giới. Bà đi khất thực, khi được các Cư sĩ hỏi thăm về chỗ ở, bà than phiền là chật chội, ồn ào, đủ thứ. Cư sĩ chung tiền cúng cho bà làm một phòng riêng mà ở cho thanh tịnh. Sau đó, Ni An Ổn đem tiền ấy sắm y để mặc, gặp Cư sĩ hỏi bà vẫn kêu rêu như trước. Họ hỏi, thế thì bà chưa làm phòng riêng sao. Bà nói, tiền các vị cúng cho tôi làm phòng đã được đem may y hết rồi. Cư sĩ chê bai. Phật chế giới này, cấm cái sự "người ta cho mình tiền để làm việc này, mình lại đem làm việc khác.”

23. Xin Vầy Xoay Khác
Phật ở Xá Vệ, Lục quần Tỳ kheo ni đi khắp nơi quyên tiền về làm nhà cho Tăng chúng ở, khi được tiền về, lại không làm nhà mà đem chia nhau để may y, bị Cư sĩ chê bai. Phật chế giới này, cấm cái sự "nhân danh một việc để xin, khi được tiền lại dùng vào việc khác.”

24. Chứa Nhiều Bát Tốt
Phật ở Xá Vệ chế giới. Lục quần Tỳ kheo chứa nhiều bát đẹp, dùng mỗi ngày một cái không rửa, để chất từng đống. Cư sĩ vào chùa trông thấy, chê bai Tỳ kheo ở dơ và không biết tàm quý, xin bát thật đẹp về mà vứt bừa bãi như gạch vụn.

25. Chứa Nhiều Đồ Đẹp
Phật ở Xá Vệ, Lục quần Tỳ kheo chứa nhiều đồ dùng màu sắc đẹp đẽ, Cư sĩ trông thấy chê bai, nói giống hàng tạp hóa.

Phụ:
Kinh Phước Cái Chánh Hạnh sở tập quyển 6 nói: "Khi Phật ở thành Vương Xá, trong vườn trúc Ca Lan Đà có con trai Trưởng giả sau khi nghe Pháp, xin Phật xuất gia. Người mẹ anh ta chỉ có một con nên không muốn rời, bảo con muốn xuất gia thì hãy đợi mẹ chết đã. Người con tuân lời dạy, siêng năng làm lụng được bao nhiêu tài vật đều đem dâng mẹ, lại thường khuyên bà bố thí tu phước. Người mẹ được tài vật thì cất giữ chôn giấu, tiếc không nỡ đem cho. Nếu có Sa môn đến nhà khất thực thì mắng nhiếc nói rằng quỷ tới. Người con biết chuyện không vui càng khuyên can mẹ, người mẹ lại nói dối đã cho. Không lâu bà mẹ chết, người con mở hội bố thí rộng rãi để hồi hướng cho mẹ rồi xuất gia, tinh tấn tu hành đắc quả A la hán. Bên bờ sông Hằng vị ấy tu thiền định trong một am cỏ, một hôm có con quỷ đến đứng trước mặt hình thể đen xấu như khúc gỗ cháy, đầu tóc lòa xòa cổ nhỏ bụng lớn, tay chân bốc lửa, kêu la gào thét. Tôn giả hỏi: "Ông là ai?”
Quỷ nói: "Tôi là mẹ ông, chết đã 25 năm, đọa vào Ngạ quỷ, chịu đói khát vô cùng, không nghe đến cái tên ăn uống và nước. Có khi tôi vừa trông thấy con sông lớn, thì bỗng nó khô cạn, trông xa thấy có rừng trái cây, tới gần lại không có gì. Tôi không được lúc nào an vui. Xin Tôn giả cứu vớt. Cho tôi xin chút nước uống.”
Tôn giả nghe xong buồn khóc nghĩa: "Sống không tu, chết đọa ác đạo.” Bèn khuyên mẹ phát tâm hối lỗi. Quỷ cho biết chỗ chôn tài vật lúc sống, nhờ Tôn giả đem tài sản ấy thết trai cúng dường và xin những Sa môn thọ thực chú nguyện cho bà được thoát khổ. Tôn giả liền triệu tập thân quyến về nhà đào của cải lên, đem cúng dường Tam bảo và bố thí cho kẻ ăn xin, lớn tiếng gọi tên mẹ. Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng sức oai thần gia trì và thuyết pháp, 5000 chúng sanh nghe pháp được ngộ, quỷ thoát khổ, chết ngay. Tôn giả lại nhập định quán sát, thấy mẹ sanh vào loài quỷ giàu có, bèn thuyết pháp cho bà nghe về quả báo của tham lam, khuyên bố thí. Bà quỷ phát tâm cúng dường chư Tăng hai cuộn vải, nhưng Tăng chưa kịp chia thì quỷ tiếc, ban đêm đến lấy trộm. Tôn giả đến nơi quỷ đòi lại. Quỷ ăn trộm lại ba lần như thế, chúng Tăng cắt ra cho mỗi người một mảnh để vá áo. Quỷ cũng tới ăn trộm cái áo đi. Phật dạy, nên biết tâm bỏn xẻn thật tai hại, bị nó trói buộc thì vĩnh viễn đọa vào cõi xấu.

26. Không Cho Bệnh Y
Phật ở Xá Vệ chế giới. Sau khi Phật chế ba y cho Tỳ kheo và năm y cho Tỳ kheo ni, có những Tỳ kheo ni có kinh nguyệt ra nhiều, sợ phạm giới không dám giữ vải vụn nên không đủ để lót, làm dơ bẩn giường ghế. Do đó, Phật cho phép Ni được mặc thêm vải (y) lót bên trong lúc bất tịnh, ngoài mặc nê hoàn Tăng (quần), khi cần phải trải thêm đồ lót ghế, giường để khỏi vấy bẩn.
Ni Chiên Đàn Thâu Na mới vừa dứt kinh nguyệt, liền khoe mình không có tư tưởng dâm dục nên không còn bất tịnh, từ nay ai cần cô sẽ cho mượn "bệnh y" tức đồ vệ sinh phụ nữ. Sau đó một Tỳ kheo ni khác cần, đến mượn thì Ni cô này không cho, chính vì cô cũng đang bất tịnh, nhưng đã lỡ lời khoe khoang nên không nói lý do tại sao không thể cho mượn. Cô kia bạch chúng Tăng.

27. Dùng Y Phi Thời (làm y phải thời)
Phật ở Xá Vệ chế giới, Lục quần Ni phạm.
Y phải thời là y cúng và thọ nhận trong thời gian 5 tháng thọ y công đức, từ rằm tháng bảy đến rằm tháng chạp; ngoài thời gian ấy ra mà nhận thì gọi là y phi thời, phải "thuyết tịnh" nghĩa là đem ra giữa Tăng mà xả bằng pháp tịnh thí chân thật hay triển chuyển đã nói ở giới số 1 Xả đọa ở trên.
"Thọ y công đức" là một cách Phật tưởng thưởng, cho phép chúng Tăng xả hơi sau ba tháng An cư thanh tịnh. Trong thời gian thọ y công đức, có năm sự được phóng xả như sau: Một là được chứa y dư; hai lìa y ngủ; ba ăn biệt chúng; bốn ăn nhiều lần; năm đi ra khỏi dặn, vào bữa ăn sáng (tiền thực) hoặc bữa ăn trưa (hậu thực).
Nếu không có thọ y công đức thì năm việc nói trên chỉ được một tháng phóng xả từ rằm tháng bảy tới rằm tháng tám.

28. Đổi Rồi Đòi Lại
Phật ở Xá Vệ chế giới, Ni Thâu La Nan Đà đổi y với một cô khác, sau giận không muốn đổi, đòi lại.

29. Áo Dày Quá Giá
Phật ở thành Tỳ Xá Ly, trong giảng đường lầu các bên sông Di Hầu. Khi Tỳ kheo ni Ca La đến khất thực tại nhà một Cư sĩ quen biết, gặp một người dòng họ Ly Xa (Licchavi); ông ta phát tâm muốn cúng dường cho cô một món gì, yêu cầu cô nói ra vật dụng cô cần. Ni cô nói đã có đủ, không cần gì cả. Người Ly Xa năn nỉ, cô bèn đòi một cái y quý, giá thật đắt. Người Ly Xa đã không cho, lại còn rêu rao là Ni tham cầu không chán, đáng lẽ dù được cho áo đẹp đắt giá cũng không nên nhận, huống hồ đi xin. (Xem chuyện số 4 ở chương này).

30. Áo Mỏng Quá Giá
Phật ở Tỳ Xá Ly, như trên. Tỳ kheo ni Bạt Đà Ca Tỳ La đến nhà Cư sĩ mà xin một tấm y mỏng trị giá 500 tấm vải mịn (trương điệp), bị Cư sĩ chê bai ham hố. Phật chế giới.
Phụ: Tỳ kheo Tất Lăng Dà Ba Sa được cúng một cái áo lông cừu đắt giá, ông mặc đi vào rừng. Bọn cướp trông thấy, đi theo Ngài bén gót. Nửa đêm hôm ấy, bọn cướp đến gõ cửa chòi. Ngài nói:
- "Các ngươi muốn gì?”
- "Muốn cái áo lông cừu. Hãy đưa ra đây.”
- "Được. Hãy thò tay vào song cửa sổ, ta sẽ đưa ra cho.”
Tôn giả gia trì thần lực vào cái y, khiến cho bọn cướp đưa tay vào mà không tài nào lôi ra được, thất kinh kêu cứu. Tôn giả thu nhiếp thần lực, chúng bèn bỏ chạy một nước không còn dám bén mảng. Sau Tôn giả về thuật lại câu chuyện, các Tỳ kheo bạch Phật. Phật lo sợ cho các Tỳ kheo đời Mạt pháp không có được thần thông như Tôn giả, nếu mặc y quý giá mà ở rừng thì có thể nguy đến tánh mạng. Do đó Ngài chế giới này, một phần để Tỳ kheo giữ hạnh thiểu dục tri túc, trừ thói kiêu mạn (khi thân cận giới nhà giàu mà được đồ tốt), thói ràng buộc (được đồ tốt thì dễ bị ràng buộc thân tình với người cho), và nhất là thói giữ của, luôn luôn lo sợ mất mát và hiểm nguy.

II)- Cương Yếu Giới luật
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam Ấn Hành. PL. 2540 – DL. 1996

 

Mục Lục
Lời nói đầu
Chương I. Cương Yếu Giới luật
Chương II. Bồ Tát giới
Chương III. Bồ Tát Danh Và Thiệt
Chương IV. Xuất Gia Hoằng Phật Đạo
Chương V. Giới Là Bậc Thầy Cao Cả Nhất
Chương VI. Khai Đạo Giới Tử Thọ Bồ Tát giới
Chương VII. Thọ giới Là Làm Cho Phật Pháp Miên Trường Giữa Thế Gian

LỜI NÓI ĐẦU
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được "Cương yếu" thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoài mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
Để tạo thêm sự dễ dàng cho việc hiểu và hành trì giới học, ngay sau Giới đàn năm 1994 tại chùa Báo Quốc, Huế viên mãn, tôi giảng cương yếu Giới luật cho Tăng, Ni, nhất là nhũng vị tân Thọ giới tại Giảng đường chùa Từ Đàm trong 7 hôm. Lời giảng này được ghi chép và sửa chữa, bổ sung thêm các bài liên quan Giới luật mà tôi đã giảng các lần khác, chung lại thành tập "Cương yếu Giới luật" này, mà hôm nay có đủ duyên để gởi đến quý vị độc giả. Hy vọng nó sẽ giúp ích được phần nào trong việc thực hành Giới học của những vị hảo tâm xuất gia.
Phật lịch 2540,
Chùa Từ Đàm, mùa An cư năm Bính Tý - 1996.
Thích Thiện Siêu

CHƯƠNG I: CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
(Gồm các tiểu mục)
01. Thể Tánh Đồng Nhất.
02. Tám Hạng Tỳ Kheo.
03. Định Cọng Giới Và Đạo Cọng Giới.
04. Nguyên Nhân Phật Chế Giới Biệt Giải Thoát.
05. Mười Lợi Ích Của Việc Chế Giới.
06. Giới Thứ Nhất: Bất Dâm.
07. Giới Thứ Hai: Bất Đạo.
08. Giới Thứ Ba: Bất Sát.
09. Giới Thứ Tư: Bất Vọng Ngữ.
10. Giới Luật.
11. Bốn Khoa Của Giới.
12. Biệt Giới, Thông Giới.
13. Thế Tôn Diệt Độ.
14. Tân Tỳ Kheo Bạt Nan Đà Vui Mừng.
15. Kiết Tập Lần I
16. Tôn Giả A Nan Chứng A La Hán.
17. Tôn Giả A Nan Sám Hối.
18. Tôn Giả Kiều Phạm Ba Đề Diệt Độ.
19. Tôn Giả Xá Lợi Phất Và Mục Kiền Liên Tìm Đạo.
20. Truởng Trảo Phạm Chí Luận Chiến.
21. Tôn Giả Xá Lợi Phất Và Mục Kiền Liên Xuất Gia.
22. Tôn Giả Xá Lợi Phất Bị Vu Oan.
23. Tôn Giả Mục Kiền Liên Bị Hại.
24. Kiết Tập Kinh Và Luật.
25. Tôn Giả Ưu Ba Li Tụng Luật.
26. Nguyên Nhân Phân Hoá Luật.
27. Năm Bộ Luận Giải Thích Luật.
28. Nội Dung Tứ Phần Luật.
29. Chỉ Trì, Tác Trì.
30. Chuyện Xảy Ra ở Câu Diệm Di (Kosambiya)
31. Đức Phật ở ẩn Trong Rừng.
32. Phật Dạy Pháp Lục Hòa ở Kosambiya.
33. Phật Cấm Dùng Thần Thông Để Thu Bát.
34. Phân Tích Giới Bổn.
35. Giải Thích Bốn Ba La Di.
36. Giải Thích 13 Tăng Tàn.
37. Giải Thích 2 Bất Định.
38. Giải Thích 30 Xả Đọa.
39. Giải Thích 90 Ba Dật Đề.
40. Giải Thích 4 Hối Quá Pháp.
41. Giải Thích 100 Học Pháp.
42. Giải Thích 7 Diệt Tránh.
43. Tánh Giới Và Già Giới.
44. Các Yếu Tố Kết Thành Tội.
45. Sáu Trường Hợp Đặc Biệt Đối Thủ Sám Tội Tăng Tàn.
46. Sáu Trường Hợp Tâm Niệm Sám Diệt Tội Tăng Tàn.
47. Sám Hối Tội Ba La Di Và Tăng Tàn.
48. Sám Hối Tội Thâu Lan Giá.
49. Sám Hối Tội Ba Dật Đề, Đề Xá Ni, Đột Kiết La.
50. Mười Tám Việc Đưa Đến Phá Hòa Hợp Tăng: Phá Kiết Ma Tăng, Phá Pháp Luân Tăng
51. Thế Nào Là Tăng?
52. Đại Giới.
53. Giới Trường.
54. Thất Diệt Tránh.
55. Kiết Ma.
56. Điều Kiện Của Kiết Ma.
57. Tập Tăng Tác.
58. Thứ Hậu Tác.
59. Kiết Ma Phi Tướng.
60. Dự Dục.
61. Nhận Dự Dục.
62. Dự Dục Không Thành.
63. Kiết Đại Giới Bên Tăng Và Bên Ni.
64. Xuất Gia Thọ Giới.
65. Tỳ Kheo.
66. Đời Sống A La Hán.
67. Hòa Thượng.
68. Y Chỉ.
69. Nên Học Và Không Nên Học.
70. A Xà Lê.
71. Nguyên Nhân Thuyết giới.
72. Bố Tát.
73. Mục Đích Bố Tát.
74. Trung Gian Bố Tát.
75. Cách Thuyết giới.
76. Già Thuyết giới.
77. Không Đủ Tư Cách Ngăn Thuyết giới.
78. Đủ Tư Cách Ngăn Thuyết giới.
79. Triển Ngày Thuyết giới.
80. An Cư.
81. Tiền An Cư, Hậu An Cư.
82. Thọ Nhật.
83. Tự Tứ.
84. Cầu Thỉnh.
85. Y Đệ Ngũ Luật Sư.

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

1/ Thể Tánh Đồng Nhất.
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni dầu tân dầu cựu về mặt Giới luật, thể tánh đồng nhất.

2/ Tám Hạng Tỳ Kheo.
Theo Tứ phần luật thì có 8 hạng Tỳ kheo:
1. Danh tự Tỳ kheo: Là tên do thế gian gọi, chứ không phải Tỳ kheo, vì không Thọ giới Cụ túc.
2. Tương tợ Tỳ kheo: Là cạo bỏ râu tóc mà không Thọ giới. Giả bộ hình tướng xuất gia nhưng thực chỉ là Cư sĩ trọc đầu.
3. Tự xưng Tỳ kheo: Là cạo bỏ râu tóc rồi mặc áo Ca sa trà trộn trong hàng ngũ xuất gia, tự xưng Thích tử. Trong Phật giáo gọi là tặc trụ. Hạng này cần phải đuổi ra khỏi ngôi nhà Phật pháp và không cho Thọ giới.
4. Khất thực Tỳ kheo: Cũng mặc áo Ca sa khất thực, lạm xưng Thích tử, nhưng kỳ thực là ngoại đạo hay Cư sĩ, không có Giới luật.
5. Thiện lai Tỳ kheo: Là khi Phật còn tại thế, bậc lợi căn đến xin xuất gia. Phật gọi "Thiện lai Tỳ kheo" tiến tu phạm hạnh để diệt khổ, tức thời râu tóc được phép tự rụng, Y Ca sa dính vào mình đúng Luật, trở thành Tỳ kheo.
6. Trước Ca sa Tỳ kheo: Là 3 Y của Tỳ kheo cắt dọc từng miếng may lại và nhuộm màu hoại sắc mà mặc, như ngoại đạo hay người thế tục cũng xưng là Tỳ kheo, kỳ thực không phải Tỳ kheo.
7. Phá kiết sử Tỳ kheo: Tất cả phiền não ràng buộc, làm cho chúng sinh phải trôi lăn trong 3 cõi. Nếu xuất gia có thể đoạn trừ được phiền não ấy thì chứng quả A la hán, liền đặng Cụ túc giới.
8. Bạch tứ Kiết ma Tỳ kheo: Nếu có người muốn xuất gia, họ đối trước chúng Tăng ba phen cầu khẩn. Chúng Tăng mới một lần bạch, 3 lần Kiết ma Truyền giới Cụ túc, gọi là bạch tứ Kiết ma. Một lần thưa, ba lần hỏi (biểu quyết).
Trong 8 hạng Tỳ kheo nói trên, trừ Thiện lai Tỳ kheo, là chúng Tỳ kheo chỉ có trong khi đức Phật còn tại thế. Trong những năm đầu khi chưa chế giới, những thiện nam nào đến với Ngài và xin phát tâm xuất gia thì gọi là Thiện lai Tỳ kheo. Ngay khi Ngài gọi "Thiện lai Tỳ kheo" thì mặc nhiên giới thể được đầy đủ. Trong kinh còn nói rõ thêm là: Y pháp cụ túc, tu phát tự lạc là Y phục được đầy đủ, râu tóc tự rụng. Tự rụng ở đây không phải là nó tự rụng liền đâu, nhưng nó được phép rụng (cắt, cạo) đúng Luật. Cụm từ "Thiện lai Tỳ kheo" chỉ có trong thời đức Phật chưa chế giới và cũng chỉ có Phật mới dùng tiếng "Thiện lai Tỳ kheo" mà thôi. Còn sau khi đức Phật chế giới rồi thì chỉ có Thọ giới trong Giới đàn và phải bạch tứ Kiết ma mới thành Tỳ kheo.
Bây giờ còn lại 7 hạng Tỳ kheo. Trong 7 hạng Tỳ kheo đó, tùy hành giả tự chọn. Nếu chọn hạng Danh tự Tỳ kheo thì chỉ có cái tên suông. Nếu chọn hạng Tương tợ Tỳ kheo thì cũng na ná như Danh tự Tỳ kheo. Tóm lại, ai muốn chọn loại nào thì tùy ý. Nhưng ở đây, tôi chỉ nhấn mạnh, hạng Tỳ kheo đoạn trừ kiết sử, tức Kiến đế Tỳ kheo. Bậc Tỳ kheo này do tu hành đoạn trừ phiền não kiết sử mà trở thành Tỳ kheo. Đây là một trường hợp đặc biệt. Nếu người nào tu hành đoạn trừ được kiết sử thì họ cũng gọi là Kiến đế Tỳ kheo. Nhưng chính thức nhất là nói hạng bạch tứ Kiết ma Tỳ kheo.
Khi đã trở thành Tỳ kheo thì phải biết pháp của Tỳ kheo. Nếu không biết pháp Tỳ kheo thì chỉ có danh mà không có thực. Nhưng pháp Tỳ kheo nhiều lắm. Theo Luật tạng, giữ cho đúng thì thật khó vô cùng. Nếu chúng ta để suốt cả đời mà học Luật thì chưa chắc đã hiểu hết cái ngóc ngách, tỉ mỉ của nó. Sở dĩ có nhiều ngóc ngách cũng chỉ để trừ tâm bệnh của chúng sinh. Cái nghiệp của chúng sinh nó ngóc ngách như vậy nên Phật phải chế giới tỉ mỉ để trừ nó. Thí dụ, ngồi trong chúng đánh hắng to tiếng, Phật cũng chế giới. Cuộc sống của người đệ tử xảy ra lắm chuyện cho nên Phật cũng chế Luật tương ứng. Vì vậy, học cho hết Luật cũng không dễ. Tuy vậy, mặc dầu chúng ta không thể nói nước biển quá lớn không thể uống hết nên không uống. Phật dạy, nước trong bốn biển là nhiều nhưng cùng một vị mặn. Luật của Phật cũng thế, dù đa dạng nhưng chúng ta không thể không học. Học một phần trong 250 Giới cũng biết được mùi vị an lạc của nó, đó là mùi vị giải thoát.
Muốn nếm được mùi vị giải thoát của Giới luật, nên nay tôi xin nói tóm tắt về Giới luật.

3/ Định Cọng Giới Và Đạo Cọng Giới.
Ngoài Biệt giải thoát giới có Định cọng giới và Đạo cọng giới. Như ngày xưa có một Thiền sư làm một cái cốc tu ở trên núi. Có một bà thí chủ phát tâm ủng hộ bằng cách, hằng ngày sai cô con gái đem cơm lên cúng cho Sư suốt 3 năm. Trong thởi gian ấy, mọi sự đều tốt đẹp. Mỗi lần đem cơm cúng dường trở về, bà đều hỏi con về sự tu hành của Sư. Người con gái trả lời vị Sư này tu hành tinh nghiêm, bà mẹ nghe cũng thích. Tới năm thứ 3, bà bảo con: "Này con, bữa nay phải thử lòng tu của Sư, coi có thực tu hay không. Con đem cơm lên dâng cho Sư, thọ thực xong, con giả bộ ôm Sư coi Sư phản ứng ra sao?” Người con gái làm theo lời mẹ dặn, ôm Sư, Sư trả lời: "Khô mộc hàn nham, tam niên vô lãnh noãn", nghĩa là: "Cây khô trên núi ba năm không biết lạnh nóng.”
Khi về nhà, bà mẹ hỏi con, người con gái thuật lại cho bà nghe lời Sư thốt ra. Bà nghe xong đùng đùng nổi giận. Tức quá, bà lên châm lửa đốt cốc của Sư. Vừa đốt vừa dẫm chân kêu lên: "Té ra 3 năm này uổng công phí của để cung cấp cho một cái cây khô. Thật là uổng công, uổng của quá trời?” Vị Sư thấy thế lấy làm xấu hổ, bèn đi tìm nơi khác. Chí nguyện tu hành của Sư vững vàng, nên Sư đã tìm chỗ khác để tu. Khi nghe Sư làm cốc tu lại, bà cũng phát tâm ủng hộ và Sư cũng bỏ qua chuyện cũ. Người con gái cũng hàng ngày cơm nước cúng cho Sư. Bà hỏi con về cách tu hành và hành động của Sư, người con trả lời cũng không thấy có gì cả. Sau ba năm, bà biểu con cũng làm Y như trước, coi Sư phản ứng thế nào.
Một hôm, người con gái lên cốc cúng dường xong và ôm Sư hôn. Sư nói với cô rằng: "Ta biết, ngươi biết, Phật biết nhưng đừng cho bà ấy biết.” Người con về thuật lại cho mẹ nghe. Bà mừng quá và nói: "Có thế chứ!.” Khi ấy bà khăn áo tề chỉnh, lên cốc xin sám hối với Sư và xin ủng hộ tiếp. Đó chính là Giới. Vì sao? Vì đó là Định cọng giới. Vị sư ấy không Thọ giới trong Giới đàn bạch tứ Kiết ma, nhưng do định lực mà nhiếp tâm Giới hết sức nghiêm túc không đi Bố tát nhưng giữ đầy đủ Giới luật. Cho nên chúng ta học Luật là để Giữ giới, và cũng đừng nghĩ rằng, chỉ có những người đi Bố tát mới là người giữ Luật, còn những người tu thiền, không đi Bố tát là không Giữ giới.
Chính những người nhờ tu thiền, họ Giữ giới và trì giới hơn ai hết, đó là Định cọng giới. Định cọng giới là nhiếp cả tam nghiệp vào định. Khi đã nhiếp ba nghiệp rồi thì có cái nghiệp nào dư mà đi làm bậy đâu! Thân, khẩu, ý nhiếp vào trong định thì định ấy là thân, khẩu, ý, ngoài ra không có cái thân, khẩu, ý thứ hai để mà đi làm chuyện sai quấy. Cho nên trong Luật nói về Giới, thì đó là Định cọng giới. Nên ngày nào tu thiền định thì ngày đó có Giới. Tâm được tu ngày nào thì ngày đó có định, nếu tâm không tu mà loạn tưởng thì không có Giới.
Có vị Tổ sư ngày xưa cũng đã có bài kệ phản ánh cho tâm định như sau:
Tịch tịch tinh tinh thị,
Vô tình tịch tịch phi,
Tinh tinh tịch tịch thị,
Vọng tưởng tinh tinh phi.
Nghĩa là:
Tịch tịch tinh tinh thị: là yên lặng trong sự thức tỉnh, thì đúng.
Vô tình tịch tịch phi: là vô tình mà yên lặng, là sai.
Tinh tinh tịch tịch thị: là thức tỉnh trong yên lặng mới đúng
Vọng tưởng tinh tinh phi: là thức tỉnh trong vọng tưởng, là sai.
Câu chuyện của bà già cho con gái ôm Sư, ba năm đầu mà Sư đáp: "Ta như gốc cây khô dựa vào tảng đá lạnh, qua 3 mùa đông không biết lạnh nóng", nên bà giận. Ba năm sau, cô con gái cũng ôm Sư, Sư nói: "Phật biết, ngươi biết, ta biết nhưng đừng cho bà ấy biết", bà mừng rỡ. Vị sư lúc đầu tu để thành "như gốc cây khô" đó là vô tình mà vắng lặng, nên sai. Ba năm sau, "Phật biết, ta biết, ngươi biết" là ý nói vắng lặng mà sáng suốt, là đúng. Nên bà già mừng rỡ.
Khi đức Phật chưa chế giới, các vị đệ tử tại gia và xuất gia nghe đức Phật thuyết pháp rồi thì tâm họ được viễn trần, li cấu (xa lìa trần cấu mà được con mắt pháp thanh tịnh). Pháp nhãn là con mắt pháp con mắt ấy thấy pháp Tứ đế. Cũng cần nói thêm là, con mắt hôm trước đục mờ, không thấy pháp Tứ đế khổ, tập, diệt, đạo con mắt ấy chưa thanh tịnh. Bây giờ con mắt ấy đã thấy rõ pháp Tứ đế rồi, cho nên pháp nhãn thanh tịnh, chứng được quả vị Tu đà hoàn. Chính đó là Giới, mặc dầu họ không trải qua 3 lần Kiết ma Thọ giới. Giới của các vị đó là Đạo cọng giới.
Vậy đạo cọng giới là gì? Chính là nhờ hiểu được lý Tứ đế mà phát sinh các tâm vô lậu nên không còn làm chuyện sai quấy. Những ai được tâm vô lậu, chính họ không nói mình tu Giới, mà họ chỉ quán pháp Tứ đế, quán Vô thường, Vô ngã... và chính trong khi quán, họ ngộ được đạo, không làm những chuyện sai quấy nên họ cũng được gọi là người Giữ giới tinh nghiêm, nên gọi là Đạo cọng giới.
Đức Phật Thích Ca thành đạo, 12 năm đầu, các hàng đệ tử của Phật chỉ theo pháp mà tu hành, trong đó tu thiền định là chính, tu trí tuệ là thứ. Đạo cọng giới thuộc về trí tuệ; Định cọng giới thuộc về thiền định. Tu hai pháp ấy mà vẫn ngăn được tội ác để thành tựu được Giới. 12 năm đầu Ngài chưa chế giới, như trong Luật đã nói đức Thích Ca có một bài kệ, là:
Thiện hộ ư khẩu ngôn,
Tự tịnh kỳ chí ý,
Thân mạc tác chư ác,
Thử tam nghiệp đạo tịnh,
Năng đắc như thị hành,
Thị đại tiên nhân đạo.
Nghĩa là khéo léo mà giữ miệng lưỡi lời tiếng, tự mình làm sạch tâm trí của mình và thân thể nữa cũng đừng làm ác, đó là đường sạch của ba nghiệp; khả năng đạt được đường sạch như vậy, chính là đường đi của bậc đại tiên. Hay nói một cách ngắn gọn là: Khéo giữ gìn thân, miệng, ý; đừng nghĩ bậy, đừng nói bậy, đừng làm bậy. Đó là Giới kinh của đức Thế Tôn.

4/ Nguyên Nhân Phật Chế Giới Biệt Giải Thoát.
Từ đó về sau mới phân biệt nói rộng ra là vì có một lần, Tôn giả Xá Lợi Phất thưa Phật: "Bạch đức Thế Tôn, làm sao để Chánh pháp của đức Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ rồi, Chánh pháp ấy vẫn được tồn tại lâu dài?" Thế Tôn dạy: "Đức Phật nào mà có nói Giới, nói Pháp thì chúng đệ tử nhờ đó để tu hành, làm cho Chánh pháp được cửu trụ sau khi Như Lai diệt độ.” Khi ấy Tôn giả Xá Lợi Phất thưa với Ngài rằng: "Bạch Thế Tôn, tại sao con không thấy Thế Tôn chế giới mà chỉ nói pháp?” Ngài dạy: "Này Tôn giả, Ta biết thời phải làm gì, nay chưa tới thời nên Ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới.” Vì thế, 12 năm đầu chưa xảy ra chuyện gì cấu uế nên Ngài chưa chế giới.

5/ Mười Lợi Ích Của Việc Chế Giới.
Đến năm thứ 13, có xảy ra chuyện Na Đề Tử ân ái với vợ cũ, nên Phật mới bắt đầu chế giới. Trước khi chế giới, Ngài nói lợi ích của việc chế giới.
1. Nhiếp thủ ư Tăng: vì kiện toàn Tăng già thành chúng thanh tịnh.
2. Linh Tăng hoan hỉ: vì tu hành phạm hạnh nên thiện tâm tăng trưởng khiến được hoan hỉ đối với nhau.
3. Linh Tăng an lạc: vì hoan hỉ được an lạc nơi thiền định, trong tự tâm.
4. Linh vị tín giả tín: khiến người chưa có lòng tin Tam bảo, thấy chư Tăng tu hành phạm hạnh mà sinh lòng tin.
5. Dĩ tín giả linh tăng trưởng: đối với người đã tin rồi khiến lòng tin của họ tăng trưởng.
6. Nan điều giả linh điều thuận: người khó điều phục khiến họ được điều thuận.
7. Tàm quí giả đắc an lạc: khiến người biết hỗ thẹn được an vui.
8. Đoạn hiện tại hữu lậu: vì đoạn diệt hết phiền não ở hiện tại.
9. Đoạn vị lai hữu lậu: vì đoạn diệt hết phiền não ở vị lai.
10. Linh Chánh pháp cửu trụ: vì tu phạm hạnh mà Chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Trong Luật Tỳ kheo của Nam tông cũng y như vậy:
1. Samaghasutthutàya: vì kiện toàn của Tăng già.
2. Samghaphà sutàya: vì an trụ của Tăng già.
3. Dummankuman puggalànam niggahàya: vì ức chế kẻ khác.
4. Pesalànam bikkùnam phàsuvihàya: vì an trụ của thiện Tỳ kheo.
5. Dittha dhammikanam asavanam samvaràya: vì đoạn phiền não hiện thế.
6. Samparàyikanam àsavanam patighàtàya: vì đoạn diệt phiền não ở vị lai.
7. Appasannànam pasàdaya: vì khiến chưa tin sinh tin.
8. Passannànam bhiyyobhàvàya: vì người đã tin, lòng tin thêm kiên cố.
9. Saddhammatthiliyà: vì Chánh pháp cửu trụ.
10. Vinayà nuggahàya: vì yêu chuộng, kính trọng Luật.
Đó là 10 điều ích lợi cho việc chế giới. Mỗi khi xảy ra một việc, Ngài chế một Giới và kèm theo 10 lợi ích của nó. Đó là lý do chế giới. Mười điều này trong Luật gọi là 10 cú nghĩa.

6/ Giới Thứ Nhất: Bất Dâm.
Đến năm thứ 13 đức Phật mới chế giới. Chuyện chế giới là do Tôn giả Na Đề Tử. Tôn giả là một người giàu có, sau đó từ bỏ gia đình xin theo Phật xuất gia. Trong thời gian sau, vì mất mùa, dân tình đói kém, chúng Tỳ kheo phải phân chia nhau đi các vùng chung quanh để khất thực. Tôn giả Na Đề cùng với một số Tỳ kheo đi đến vùng Tôn giả ở để khất thực. Khi đến, Tôn giả liền về quê và vào nhà khất thực. Bà mẹ thấy Tôn giả trở về, mừng rỡ, níu kéo, khóc lóc, van xin Tôn giả đừng đi xuất gia nữa. Nhưng Tôn giả không chịu. Bà mẹ khuyên lơn nhiều lần nhưng Tôn giả cứ khăng khăng từ chối. Cuối cùng bà nói với Tôn giả: "Con ơi, nhà ta giàu có, con đi tu rồi không ai nối nghiệp gia đình để lo hương khói cho tổ tông ông bà. Mẹ cũng đã già rồi, không có ai tâm sự hôm sớm. Thôi thì con có đi thì đi, nhưng hãy để lại cho mẹ một đứa cháu rồi hãy đi.” Thương mẹ nên Tôn giả đành chìu mẹ, và nghĩ: "Cùng với vợ cũ ân ái một chút có sao đâu!.” Thế là bà dắt con dâu tới cho Tôn giả và Tôn giả cũng thấy không có gì rắc rối cả. Tôn giả nghĩ: đi tu thì cứ đi, miễn là để cho bà một chút cháu nội cho bà yên lòng là được. Xong chuyện là Tôn giả ra đi, thậm chí sau đó sinh con, Tôn giả cũng chả hay. Từ khi xảy ra chuyện giữa Tôn giả và vợ cũ rồi, một thời gian sau thấy các vị Tỳ kheo khác không có chuyện ân ái, sao mình lại để cho chuyện vợ cũ ràng buộc? Tôn giả bức rức trong lòng và tỏ ra khó chịu, ân hận. Các vị khác Tỳ kheo hỏi: "Tại sao thời gian đầu hiền giả hoan hỉ, sắc diện tươi tốt mà nay thấy ủ rũ quá vậy?” Tôn giả đem chuyện đó kể cho các vị Tỳ kheo hay.
Các vị Tỳ kheo đem chuyện của Tôn giả bạch lên đức Thế Tôn. Thế Tôn kêu lên quở trách.
Bắt đầu từ đó Phật mới chế giới thứ nhất là hàng xuất gia thì không được dâm dục. Và trước khi chế giới, Ngài nó rõ mười công đức lớn của việc chế giới.

7/ Giới Thứ Hai: Bất Đạo.
Nguyên do là có một vị Tỳ kheo Đàn Ni Ca, nguyên là con thợ gốm, làm cái chòi bằng tranh trên núi để ở. Những người đi lượm củi, họ thấy chòi vắng nên họ đến dỡ đi và lấy củi tranh về nấu cơm. Khi về thấy chòi bị dỡ, Tôn giả bèn nghĩ là nên làm bằng vật liệu chắc chắn hơn. Suy nghĩ như vậy, Tôn giả liền làm chòi kiên cố bằng đất nung đỏ chói. Đức Phật trông thấy hỏi, các Tỳ kheo khác bạch cho Ngài hay. Ngài liền sai người kêu vị Tỳ kheo ấy lại và hỏi có việc Thầy làm chòi kiên cố trên phải không? Vị Tỳ kheo ấy xác nhận. Đức Phật bảo Thầy nên dỡ bỏ đi, nhưng Tôn giả trù trừ không muốn dỡ bỏ. Đức Phật sai các Tỳ kheo đến dỡ bỏ căn chòi đó.
Tôn giả không phản ứng gì nhưng lại có ý làm cái cốc khác. Tôn giả bèn đến nhà người giữ cây cho vua và nói rằng: Này anh kiểm lâm, vua Bình Sa có hứa cho tôi dùng cây này để tôi làm cốc tu. Anh kiểm lâm nói: nếu đã có lệnh vua thì Thầy cứ lấy. Thế là Tôn giả vác rìu đến đốn cây và xả lung tung. Cây bị đốn ngã nghiêng thành từng khoảnh. Hôm sau có quan triều đình đi kiểm tra thấy cây cối chặt bỏ lung tung, kêu anh kiểm lâm đến hỏi duyên cớ, anh kiểm lâm bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Quan triều đình cho mời Tôn giả lên và hỏi về tội đốn cây quý của nhà vua mà không được phép của quan triều đình. Tôn giả bèn trả lời rằng: Trước khi lên ngôi vua, nhà vua có nói rằng, những gì có trong nước chúng tôi, các vị xuất gia tu hành biết thiểu dục tri túc nếu có cần dùng thì cứ lấy dùng. Vua có tuyên bố như vậy nên tôi mới lấy dùng. Quan triều đình nói rằng: Vua chúng tôi có nói vậy thật, nhưng mà những vật không có chủ giữ kia, còn những đồ vật có chủ, thì vua chúng tôi không cho phép.
Câu chuyện rắc rối được các Tỳ kheo về bạch Phật. Phật mới chế giới "bất dữ nhi thủ", (người ta không cho thì không lấy). Khi ấy Thế Tôn quay qua hỏi một vị Tỳ kheo, trước khi xuất gia, nguyên là quan triều đình rành pháp Luật của vua, theo Luật vua, lấy đến ngang nào thì bị tội và ngang nào thì không bị tội? Tôn giả đáp: Theo con biết, thì như Luật pháp trong nước này, nếu lấy độ năm tiền thì bị tử hình, còn nếu dưới thì tùy đó xét xử dưới mức tù tội. Từ đó Phật chế giới: nếu ăn cắp, lấy trộm của người khác 5 tiền thì bị trọng tội.

8/ Giới Thứ Ba: Bất Sát.
Phật dạy các Tỳ kheo tu phép quán Bất tịnh để dứt lòng ái dục. Một số Tỳ kheo ở tại vườn bên sông Bà Cừu chuyên tu theo phép quán Bất tịnh. Khi quán thân Bất tịnh, thấy thân thể của mình hôi hám chịu không nổi, là một ổ vi trùng sống nhung nhúc lại càng nhàm chán hơn, cho nên muốn hủy diệt thân, mới nói: Ai giúp cho tôi giải thoát thân này thì được phước lớn. Tỳ kheo Vật Lực Già Nan Đề thuộc chủng tánh Sa môn mới xuất gia, nghe nói vậy liền cầm dao sát giúp. Khi sát xong rồi, ông ta liền cầm dao xuống sông rửa. Khi rửa dao, thấy bóng mình phản chiếu dưới nước dữ tợn quá nên ông ta đâm ra ân hận nghĩ rằng: Mấy vị Tỳ kheo kia có tội tình gì mà mình ra tay tàn sát các ông, mặc dầu có lời yêu cầu. Lúc ấy Ma vương biết ý liền hiện lên đứng trên nước và ca ngợi rằng: "Ồ Hiền giả, lành thay, Hiền giả đã làm cho người chưa độ được độ; Hiền giả đã làm một việc đại phước đức, đó là một công đức lớn. Hiền giả hãy ra tay cứu độ cho những ai muốn giải thoát thân ngũ uẩn hôi hám này, công đức thật vô lượng.” Nghe vậy ông yên tâm, xách dao về và hô to: "Hỡi các Hiền hữu, ai muốn lìa thân ngũ uẩn để giải thoát, muốn độ thoát sinh tử, đến đây tôi độ cho.” Thế là ông phơ luôn một số nữa!
Thường lệ, sau mùa An cư, các vị Tỳ kheo kéo nhau về vấn an sức khỏe đức Thế Tôn, như con về thăm cha sau 3 tháng xa nhà. Khi về hầu Phật, bao giờ Phật cũng niềm nở đón tiếp đệ tử và Ngài hỏi An cư có an lạc không, có hòa hợp không, khất thực có dễ dàng không, đi đường có trở ngại gì không... như cha thân mật hỏi con.
Nhưng mùa An cư này, Ngài thấy đệ tử các nơi về thưa thớt quá. Ngài đợi mãi đợi hoài không thấy họ trở về. Phật sai các vị Tỳ kheo đi thăm dò nghe ngóng coi họ có bị gì không? Các vị Tỳ kheo đi ra khỏi Tinh xá, thì ở ngoài đường, thiên hạ đồn ầm cả lên rằng: "Không biết mấy ông Thầy tu theo pháp môn nào mà giết nhau nằm la liệt cả khu rừng, hôi thối không ai chịu nổi.” Các vị nghe nói liền đến nơi xem thì thấy có chuyện như vậy. Các Tỳ kheo về bạch Phật. Phật bảo: Ta dạy Chánh pháp, họ hành tà pháp. Từ đó Ngài khuyên các vị Tỳ kheo đổi pháp quán Bất tịnh ra quán sổ tức để dẹp trừ phiền não, chứ không nên quán Bất tịnh đâm ra bi quan mà hủy hoại thân mình như các Tỳ kheo kia đã làm. Từ đó Ngài chế ra Giới bất sát.
Tóm lại, học Phật pháp, hành Phật pháp, nếu làm không đúng, hiểu không đúng cũng dễ đưa đến kết quả tai hại. Trái lại, không hiểu Phật pháp, không áp dụng Phật pháp vào cho bản thân và xã hội, cũng là một thiệt thòi lớn.
Ví như người bắt rắn trong kinh Xà Dụ có kể: "Một người bắt rắn mà không biết cách bắt nó, cứ cố bắt đằng đuôi, hay giữa thân rắn, nó có thể quay đầu lại cắn và có thể gây tử vong. Muốn bắt rắn, cần phải lấy cái nạng đôi đè đầu cho cứng là rắn chịu phép, mặc cho đuôi quẫy sao đó thì quẫy, không ảnh hưởng gì. Cũng vậy, tu học Phật pháp cũng phải biết phương pháp, như cách bắt rắn vậy.”
Hoặc như trong kinh Bách Dụ kể chuyện "Ăn trộm áo vua.” Có một anh chàng nghèo ăn trộm áo vua. Triều đình cho quan quân đi lùng sục khắp nơi và bắt được nó. Nó kêu oan và nói là áo của tổ tiên để lại. Quan nói nếu áo của tổ tiên anh để lại thì anh mặc vào xem. Áo vua quá rộng nên nó không biết mặc. Thấy tay áo rộng như ống quần, nó liền đưa chân vào hai tay áo. Mặc hoài không xong nên lòi ra nói láo. Quan hỏi, áo tổ tiên sao anh không biết cách mặc? Như vậy, nếu không biết sử dụng thì dầu có áo vua đi nữa cũng mang họa vào thân mà thôi. Pháp và Luật của Phật có vi diệu đến đâu, nếu không biết tu tập và hành trì đúng thì cũng chả có ích lợi gì!

9/ Giới Thứ Tư: Bất Vọng Ngữ.
Tại sao Phật chế giới này? Trong thời đức Phật, Ấn Độ chưa phải là nước đã đầy đủ luơng thực cho dân chúng hết đâu. Gặp lúc mất mùa hạn hán, chư Tăng khất thực khó khăn nên đành phải phân tán nhỏ để khất thực. Tại một thôn nọ, có một nhóm Tỳ kheo, bàn bạc và tìm cách đánh lừa tín chủ bằng cách, một người nói mình đã chứng A la hán, được thượng nhân pháp, thần thông tự tại, còn người kia phụ họa vào nói đó là việc tôi đã biết ông ta có thần thông... nếu cúng dường cho ông thì được phước vô lượng. Thế là họ ca ngợi nhau, nên bổn đạo thi nhau cúng dường. Một mùa hạ trôi qua được no đủ.
Sau mùa An cư, đệ tử lần lượt về hầu Phật, ai cũng xanh xao, duy có nhóm mấy Thầy Tỳ kheo thôn nọ, khi về hầu Phật thì béo tốt, Phật hỏi: Các Thầy An cư có an lạc không? Họ trả lời an lạc. Còn khất thực ra sao? Họ trả lời khất thực dễ lắm. Ngài ngạc nhiên hỏi: Tại sao Thế Tôn thấy mấy Thầy đến trước về thăm Ta, Ta hỏi khất thực thì họ trả lời khó lắm, nhưng vẫn giữ thiểu dục tri túc, còn các Thầy sao lại khất thực dễ quá vậy? Thế là họ đành phải thú nhận sự nói dối của mình. Thế Tôn quở trách nhóm đệ tử nọ và Ngài chế ra Giới này. Cấm các hàng Tỳ kheo đệ tử của Như Lai đại vọng ngữ; chưa chứng nói chứng, chưa thấy nói thấy pháp.
Cứ như thế, hễ xảy ra một chuyện, Phật chế ra một Giới và Ngài đã chế ra 250 Giới cho Tỳ kheo, 350 Giới cho Tỳ kheo ni, kết thành bộ Luật gọi là Luật tạng. Những Giới của Phật chế ra cũng gọi là Biệt giải thoát giới hay Ba la đề mộc xoa. Vì sao gọi là Biệt giải thoát? Vì ai Thọ giới nào thì có sự giải thoát của Giới đó, có sự lợi ích của việc Thọ giới ấy. Thí dụ, Cư sĩ tại gia thọ 5 Giới thì sẽ đem lại lợi ích của 5 Giới do mình thọ. Mười Giới có lợi ích của mười Giới, 250 Giới có lợi ích của 250 Giới, nên gọi là Biệt giải thoát.
Khác với định cọng giới, đạo cọng giới là biệt biệt giải thoát giới, tức là Giới Ba la đề mộc xoa. Chính Ba la đề mộc xoa kết lại thành một bộ Luật, gọi là tạng Luật.

10/ Giới luật.
Chữ Giới luật thường thường được dành cho hàng xuất gia và tại gia đệ tử của đức Phật thọ trì để đem đến an lạc cho bản thân và cho xã hội, công đức của nó vô lượng. Vậy nghĩa của nó là gì?
Chữ Luật có 4 tên gọi:
1. Tỳ ni (tức Tỳ nại da Vinaya), dịch là Luật hay điều phục. Điều phục những sự sai trái nơi thân, khẩu, ý. Nó cũng có nghĩa là diệt (dứt phiền não). Diệt có nghĩa là nhờ Giới này mà chứng được diệt đế, diệt quả.
2. Mộc xoa, tức Ba la đề mộc xoa (Pràti moksa), dịch là Biệt giải thoát.
3. Thi la (Sìla), dịch là Giới.
4. Upalaksa, dịch là Luật.
Thường thường ta hiểu Giới là Luật, Luật là Giới. Nhưng tại sao một chữ mà nói ra hai như thế? Nếu Giới là Luật, Luật là Giới, sao không gọi là Giới tạng mà lại gọi là Luật tạng? Vì Giới chưa hẳn có Luật mà Luật thì phải có Giới. Giới luật Y như là một thang thuốc là vì Giới là dược tánh, Luật là phương thang. Bất sát như là Thục địa, bất đạo là Kiết cánh, bất dâm là Đổ trọng... mỗi Giới như là một vị thuốc. Dược tính có tính cách đắng, màu của nó đen, có mùi thơm, có tính cách dẫn hỏa, có tính công phá và bồi bổ từng bệnh riêng, đó là dược tính của nó. Trong đạo, đó chính là Giới, còn Luật là phương thang. Chính Luật tạo ra từng phương thang một, có thang ngũ vị để dành cho Cư sĩ uống (năm Giới), có thang bát vị để Cư sĩ tu thêm (Bát quan trai Giới), có thang thập vị để mấy vị Sa di dùng (mười Giới dành cho Sa di), có thang 250 vị để cho mấy vị Tỳ kheo dùng (250 Giới của Tỳ kheo). Nếu uống thuốc đó vào mà trở bệnh thì sao? Xử lý cách nào? Tóm lại, Giới là dược tánh, Luật là phương thang. Giới là điều răn, Luật là qui Luật thi hành Giới. Không có Luật thì Giới không có cách thi hành.

11/ Bốn Khoa Của Giới.
Giới có 4 khoa lớn: Giới pháp, Giới thể, Giới hạnh và Giới tướng.
a. Giới pháp:
Giới cũng là một pháp do đức Phật chế ra nên Giới cũng gọi là Pháp, Luật cũng là Pháp; do Phật chế nên đó là Pháp của Phật. Vì vậy khi ta nói Phật pháp là gồm cả Giới trong đó nữa, chứ không phải nói pháp là pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chánh đạo... mà thôi đâu. Pháp có nghĩa như vậy nên gọi là Giới pháp.
b. Giới thể (nạp thọ pháp thành thể):
Khi Pháp có được Tam sư, Thất chứng, bạch tứ Kiết ma, đưa nó vào trong người Giới tử thì nó biến thành Giới thể của người Giới tử, gọi là Giới thể.
Thí dụ: Như là trong khi Thọ giới, vị Thầy Kiết ma bạch tứ Kiết ma rằng, tôi xin hỏi các vị ngày hôm nay, có vị đó tên như vậy, như vậy... xin theo Hòa thượng tên như vậy, như vậy thọ Cụ túc giới. Nếu Tăng chúng ai bằng lòng cho vị ấy Thọ giới Cụ túc thì cứ im lặng, ai không bằng lòng thì nói lên. Ba lần Kiết ma như thế là Giới thể được thành tựu nơi ông Giới tử. Đó là thọ thể, tức thọ nhận cái Giới thể nên gọi là thọ thể Giới, Giới được thành tựu nơi ông Giới tử.
c. Giới hạnh.
Từ nơi Giới thể mà phát ra cử chỉ, hành động, nói năng đều Y như pháp, tức là tùy thuận Giới thể mà các hành vi của 3 nghiệp thân, khẩu, ý đều hành động Y như pháp. Chúng ta quan sát kỹ, một người khi họ chưa Thọ giới thì nói năng, hành động khác; khi họ đã Thọ giới rồi, hành động, nói năng lại càng khác hơn. Là vì do có Giới hạnh nên hình tướng và oai nghi khác đi, gọi là Giới hạnh.
d. Giới tướng.
Hành trì giới luật có oai nghi hiện tướng ra bên ngoài, ai trông thấy cũng biết được, đó gọi là người có Giữ giới.
Nói về Giới thể thì có 3 quan điểm:
- Theo quan điểm của các bộ phái Phật giáo ngày xưa, chỉ quan niệm Giới thể chung chung thế thôi. Phái Nhất thiết hữu bộ chủ truơng Giới thể thuộc sắc pháp, lấy sắc pháp làm Giới thể; bởi lẽ, một người thành tựu được Giới là phải đối trước Tam sư, Thất chứng, chính tự mình thân quỳ lạy, miệng nói, trả lời câu hỏi mới thành được. Nếu không lạy, không quỳ, không dùng cái thân này tỏ bày cái tướng lãnh thọ giới điều thì không thành Giới thể được. Mà thân này là gì? Là tứ đại sắc thân. Lấy tứ đại sắc thân đối trước Tam sư, Thất chứng mà Thọ giới thể, cho nên Giới thể đó thuộc về sắc pháp. Đó là quan điểm của Hữu bộ. Vì vậy, quan điểm của Hữu bộ cho Giới thể thuộc về Vô biểu sắc. Vô biểu sắc là một thứ sắc không biểu hiện cho người ta thấy được, nó là một pháp vô hình nhưng thuộc về sắc. Theo Hữu bộ, nó thuộc về sắc ấm, sắc uẩn chứ không phải thuộc các uẩn khác. Giới thể theo Hữu bộ là sắc pháp.
- Theo Đại thừa Duy thức thì Giới thể thuộc về tâm pháp, vì sao? Vì theo Duy thức, người ta có hai thứ nghiệp, là tư nghiệp và tư dĩ nghiệp. Tư nghiệp là nghiệp của ý. Thí dụ, mình nghĩ phải bố thí cho kẻ nghèo, sự suy nghĩ đó nó đang còn trong tâm chứ chưa hiện ra ngoài. Chính sự suy nghĩ đó cũng là cái nghiệp sau khi suy nghĩ, nó phát ra miệng nói, tay cầm vật cho kẻ nghèo, như vậy gọi là tư dĩ nghiệp.
Tư có ba: là Thẩm lự tư, tức suy nghĩ, tính toán; Quyết định tư, tức đã quyết định, và Phát động tư, là từ quyết định phát động ra ngoài, gọi là Phát động tư. Vì vậy, theo Đại thừa Duy thức thì khi một người nào đó đã phát động ra trước Tam sư, Thất chứng, ví dụ nói: Tôi xin giữ được Giới ấy... cái phát động ấy chính là do cái tư, cái mà anh suy nghĩ và nói ra, nếu không có cái tư ấy thì làm sao anh nóì tôi xin giữ được? Cho nên, Đại thừa Duy thức nói Giới thể thuộc về tâm pháp chứ không thuộc về sắc pháp.
c. Phái Thành thật luận cho rằng, Giới thể phi sắc phi tâm, bởi nó không trông thấy, làm sao nói là sắc? Thứ nữa, nó không có duyên lự, làm sao nói tâm được, nên nói là phi sắc phi tâm. Nó chỉ là một cái năng lực ngấm ngầm bên trong, có tác dụng ngăn chặn việc làm sai trái của người định làm. Thí dụ, người Thọ giới Cụ túc rồi, mỗi năm đến mùa An cư phải nhập hạ, song có lúc có người không muốn An cư, nhưng sức mạnh ngấm ngầm của Giới biểu họ phải An cư, đó là chuyện nên làm. Tóm lại, đó là một năng lực phi sắc phi tâm. Dù nói cách nào, như chủ trương nó thuộc sắc pháp, dầu thuộc tâm pháp, dầu thuộc phi sắc phi tâm thì cũng là một cái năng lực vô hình có năng lực phòng phi chỉ ác ngăn điều quấy, dứt điều ác.
Tóm lại, 250 Giới nhìn thì nhiều, nhưng chỉ có nghĩa là phòng phi chỉ ác. Nói cách khác, muốn áp dụng Giới trong đời sống hàng ngày thì phải hiểu cách thực hành của nó, đó là chỉ trì và tác trì Chỉ trì giới là Giới ngăn dứt, không làm. Thí dụ, phát nguyện giữ 5 Giới, đó là do tự phát nguyện. Nếu không sát sinh hại mạng thì đã là trì giới, ngược lại, sát sinh là phạm. Hai trăm năm mươi Giới của đức Phật chế, trừ chúng học pháp ra, có một phần trì, một phần chỉ. Tác trì giới tức là những điều đáng phải làm mà làm thì gọi là trì; ngược lại không làm là phạm. Ví dụ: Khi đến mùa An cư mà An cư là trì, không An cư là phạm, nên gọi là tác trì giới.

12/ Biệt Giới, Thông Giới.
Giới của Phật chế có Biệt giới và Thông giới.
a. Biệt giới là Giới của hàng xuất gia, Giới của hàng Thanh văn. Thí dụ: Hàng xuất gia nếu là Tỳ kheo thì phải thọ 250 Giới, Sa di là 10 Giới, còn Cư sĩ là thọ 5 Giới... Có phân biệt rõ ràng như vậy gọi là Biệt giới. Cư sĩ không thể thọ 250 Giới. Riêng đối với Ni cũng vậy. Sa di ni cũng thọ 10 Giới, không được quá. Thức xoa ma na 6 Giới, không được quá. Tỳ kheo ni 350 Giới mà thôi, nên gọi là Biệt giới.
b. Thông giới tức là Bồ tát giới, ai thọ cũng được. Sa di, Cư sĩ, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa, Sa di ni, có bệnh không bệnh, dù thân căn không hoàn chỉnh thọ cũng được. Điều kiện để thọ là nghe tiếng, hiểu nghĩa Pháp sư truyền là được thọ; trái lại, trong Luật Tỳ kheo, nếu ai bị dị tật thì không được thọ. Vì vậy, Bồ tát giới gọi là Thông giới, còn Luật Tỳ kheo, Sa di... gọi là Biệt giới. Thông giới có tính cách vĩnh cữu, còn Biệt giới chỉ có tận hình thọ mà thôi. Giả sử hoặc có chết, hoặc thay đổi nam thành nữ tánh thì tự nhiên mất Giới, mặc dù tâm không mất, nhưng hình tướng đã mất thì Giới cũng mất, đó là không kể xả Giới. Còn Giới Bồ tát thì tùng kim thân cho tới Phật thân, tức cho đến thành Phật, Giới đó không mất. Chỉ mất Giới khi nào cố ý bỏ Bồ đề tâm, bỏ Bồ tát hạnh, phạm Trọng giới mới mất. Còn có phạm Khinh giới vẫn được sám hối. Vì vậy, người giữ Bồ tát giới dầu có đọa Địa ngục, có lên thiên đường, có phạm năm lần bảy lượt đều có thể sám hối, miễn là chủng trí Bồ đề tâm vẫn còn.
Lúc đức Phật sắp Niết bàn, các hàng đệ tử tỏ ý lo lắng, sợ đức Thế Tôn nhập Niết bàn rồi không ai dìu dắt chúng đệ tử. Đức Phật mới dạy rằng, Pháp và Luật mà Ta đã dạy cho các ngươi, chính đó là Đạo sư của các ngươi. Trong kinh Di Giáo, đức Phật dạy: "Nhữ đẳng Tỳ kheo, ư ngã diệt hậu, đương tôn trọng trân kính Ba la đề mộc xoa, như ám ngộ minh, như bần nhân đắc bảo. Đương tri thử tắc thị nhữ đẳng đại sư. Nhược ngã trú thế, vô dị thử dã.” Nghĩa là: "Các Thầy Tỳ kheo, sau khi Ta diệt độ, các Thầy phải tôn trọng tôn kính Tịnh giới, như ở chỗ mù tối mà được ánh sáng; nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết Tịnh giới là đức Thầy cao cả của các Thầy. Nếu Ta ở đời thì cũng không khác gì vậy.” Đó là lời dạy thứ hai. Lời dạy thứ ba là: "Các ngươi hãy tinh tiến lên để giải thoát.”
Nói về lời dạy Pháp và Luật trong giáo lý đức Phật, chúng ta phải biết Pháp là gì và Luật là gì? Pháp tức là Giáo pháp. Thí như Ngài dạy về lý Vô thường, Vô ngã, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Bát chánh đạo, Giới, Định, Tuệ... gọi là Pháp. Pháp ấy có mục đích hướng dẫn cho chúng sinh tu hành để thành đạo, để giác ngộ. Luật là gì? Luật là những điều răn cấm, những quy tắc, những Luật lệ để hành trì, áp dụng cho đời sống cá nhân và tập thể. Pháp kết tập lại thành Kinh tạng, Luật kết tập lại thành Luật tạng.
Sau khi đức Phật nhập diệt, lần kiết tập đầu tiên là kiết tập Kinh tạng và Luật tạng. Bây giờ chúng ta nói kiết tập Tam tạng là nói chung, nhưng lúc đầu chủ ý kiết tập là thành Kinh tạng và Luật tạng, hai chữ này nó mang một ý nghĩa rất lớn. Cả Kinh tạng tóm lại trong một chữ Pháp mà thôi; cả Luật tạng thành một chữ Luật mà thôi. Cho nên Ngài không nói Ta để lại Kinh tạng, Luật tạng cho các ngươi, mà Ngài nói: Ta để lại Pháp và Luật cho các ngươi. Các ngươi hãy lấy đó làm bậc Đạo sư của mình. Ta có ở đời cũng không khác.

13/ Thế Tôn Diệt Độ.
Khi đức Phật nhập Niết bàn ở tại rùng Kusinara giữa Ta la song thọ, Tôn giả Ma ha Ca Diếp cùng một số Tỳ kheo rất đông đang đi du hóa và hành đạo ở phương xa. Số đệ tử này do Phật độ sau 45 năm hành đạo và thuyết pháp, một số khác do các đệ tử Ngài thâu nhận vào nhập chúng cũng khá đông. Các đệ tử của Ngài ở rải rác khắp mọi nơi. Riêng Tôn giả Ma ha Ca Diếp với một số Tỳ kheo ở phương khác như xứ Pava, nhân ngày đó cùng đi về thành Kusinara. Giữa đường, gặp một người ngoại đạo cầm một cái hoa nơi tay, Tôn giả liền hỏi: Hiền giả từ đâu đi lại? Ông trả lời: tôi từ Kusinara đến. Vậy Hiền giả có biết Như Lai, Thế Tôn của chúng tôi ở đâu không? Như Lai, Thế Tôn của các ông đã nhập diệt rồi. Chính tôi ở nơi chỗ nhập diệt của Ngài mà lượm cái hoa này đây. Nghe nói như vậy, các vị A la hán thì bình tĩnh yên lặng, nhưng các vị chưa đạt đến quả vị A la hán tâm lý xúc động mạnh. Có vị ưu phiền, có vị ré lên, đấm ngực khóc lóc.

14/ Tân Tỳ Kheo Bạt Nan Đà Vui Mừng.
Trong số này có một Thầy Tỳ kheo tên là Bạt Nan Đà khi nghe tin Thế Tôn diệt độ, mừng rỡ liền nói: Này các Hiền giả, lý đáng ra khi nghe tin này, các Hiền giả phải vui mừng, sao lại khóc lóc? Khi ông Đại Sa môn còn sống, ta cứ bị ràng buộc theo ông. Ông cứ bảo nên làm như thế này, thế nọ; không nên làm như thế này, như thế nọ. Ông Đại Sa môn cứ nhắc nhở hoài, phiền toái quá? Bây giờ ông Đại Sa môn quá vãng rồi, thì chúng ta được sống tự do. Cái gì ta ưng thì ta làm, cái gì ta không thích thì ta không làm. Chúng ta được sống tự do theo ý chúng ta.
(Tôi đọc cuốn Văn minh Ấn Độ của Durand, ông có nhắc chuyện Tỳ kheo Bạt Nan Đà và có nhận xét thêm: Tương lai trong hàng đệ tử của Phật, những người tu theo Bạt Nan Đà đông hơn theo Phật, có lẽ cũng đúng!).

III)- Bồ tát Giới
Hòa Thượng Thích Trí Quang dịch giải
 

Mục Lục
I. Phần I: Dịch Giải
A. Chương 1: Dẫn Nhập
1. Tiết 1: Tài Liệu Sử Dụng
2. Tiết 2: Các Bản Bồ tát Giới
3. Tiết 3: Giải Thích Đầu Đề
4. Tiết 4: Phẩm 10 Với Phẩm Pháp Môn Tâm Địa
5. Tiết 5: Thế Giới Phạm võng
6. Tiết 6: Sự Liên Hệ Của Phạm võng
7. Tiết 7: Giới Hạn Tụng Bồ tát Giới Phạm võng
8. Tiết 8: Đặc Chất Của Bồ tát Giới Phạm võng
9. Tiết 9: Bồ tát Giới Phạm võng Đối Với Người Tại Gia
B. Chương 2: Dịch Giải Nghi Thức Tụng Bồ tát Giới Phạm võng
1. Tiết 1: Qui Kính Khuyến Khích
2. Tiết 2: Sách Tiến Tu Tập
3. Tiết 3: Làm Phương Tiện Trước
4. Tiết 4: Lời Tựa Mở Đầu
5. Tiết 5: Chất Vấn Thanh Tịnh
C. Chương 3: Dịch Giải Chính Văn Bồ tát Giới Phạm võng
1. Tiết 1: Mở Đầu Về Bồ tát Giới Phạm võng
2. Tiết 2: Nói Về Giới Điều Bồ tát Giới Phạm võng
3. Tiết 3: Kết Thúc Và Khuyến Cáo Thọ Trì Bồ tát Giới Phạm võng

II. Phần 2: Trì Tụng
A. Chương 1: Phụ Lục Nghi Thức Tụng Bồ tát Giới Phạm võng
B. Chương 2: Chính Văn Bồ tát Giới Phạm võng
1. Xuất Xứ Gián Tiếp Của Bồ tát Giới Phạm võng
2. Xuất Xứ Trực Tiếp Của Bồ tát Giới Phạm võng
3. Xuất Xứ Của Bồ tát Giới Phạm võng Bằng Văn Chỉnh Cú
4. Qui Định Mấy Điều Cốt Yếu Về Bồ tát Giới Phạm võng
5. 10 Giới Nặng Của Bồ tát Giới Phạm võng
6. 48 Giới Nhẹ Của Bồ tát Giới Phạm võng
7. Kết Thúc Về Phần Bồ tát Giới Phần Giới Pháp Vô Tận
8. Kết Thúc Toàn Bộ Phẩm Bồ tát Tâm Địa Giới Phẩm Pháp Môn Tâm Địa
9. Phụ Lục Kết Thúc Bồ tát Giới Bằng Văn Chỉnh Cú

III. Phần 3: Phụ Lục
A. Phụ Lục 1: Danh Sách Bồ tát Giới Phạm võng
B. Phụ Lục 2: Phân Loại Bồ tát Giới Phạm võng Đối Với Xuất Gia Tại Gia

Ghi Sau Khi Duyệt Bồ tát Giới Phạm võng
Thành thực mà nói, tôi chưa có được niềm tin rằng mỗi khi có thể bị tai nạn gì thì nên tụng Bồ tát giới Phạm võng, nhưng có một điều rõ rệt là mỗi khi làm gì cho giới ấy thì đang bịnh cũng thư thái thấy rõ. Từ trước đến nay đã có 5 lần như vậy.
Tôi tự ghi tiểu truyện để sau Bồ tát giới Phạm võng là cố ý. Khi được bổn sư là ngài Phổ Minh truyền cho giới ấy, thì từ đó đến nay thật sự tôi chưa có một nỗi xúc động nào tương tự. Thế rồi gần 50 năm nay, tôi có gì đáng gọi là làm, là biểu diện của cái nỗi xúc động ấy. Và lời ghi này chính là lòng biết ơn của tôi.
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giới là bản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật. Đại thừa giới xác nhận thân là thân chúng sinh, tâm là tâm chúng sinh, nhưng thân ấy tâm ấy đều nhập cả vào giới pháp Phật tánh: đều đem ra mà thọ và trì Đại thừa giới. Đại thừa giới căn cứ quan điểm hiếu thuận: hiếu thuận với tất cả chính là giữ giới. Đại thừa giới lại xác định là cái Phật đi, cái Phật làm, nên thọ giới ấy là nhập vào cương vị của Phật.
Căn bản của Đại thừa giới là gì? Một là tự tín mình sẽ là Phật, như Phật là Phật đã thành. Hai là tôn thờ vị thầy gọi là pháp sư đại thừa (để được dạy cho Đại thừa giới, truyền cho giới ấy, hướng dẫn, khuyến tiến và giám hộ sự giữ giới ấy).
Đại thừa giới đã tạo ra bao nhiêu tập tục tốt đẹp: hiếu thuận, phóng sinh, nuôi bịnh, chữa bịnh...
Đại thừa giới đặc biệt nghiêm khắc răn dạy sự trung thành với Phật pháp tăng: cấm xu phụ quyền thế, cấm phỉ báng đồng đạo, cấm thuyết pháp hại đạo, cấm không cứu chuộc đồng đạo, cấm nạp tăng tịch cho chính quyền, cấm mặc cho đồng đạo bị chính quyền sai sử... Đại thừa giới lại cấm trở ngại sự xuất gia hành đạo, sự kiến thiết tự viện, sư tạo lập đạo tràng... Đặc biệt hơn nữa, Đại thừa giới cấm hại nước hại dân: làm gián điệp, nhất là gián điệp ngoại giao... Chỉ có thế mà thôi, Đại thừa giới cũng đã là 1 vị Hộ pháp.

Mười sáu tháng tư, 2537
Trí Quang

Lời Nói Đầu
Bồ tát giới Phạm võng tôi đã dịch giải năm 2.505 (1961), do Giáo hội Tăng già Thừa thiên ấn hành. Nay sửa chữa lại, cẩn trọng hơn nhiều lắm. Làm xong việc ấy rồi, tôi xin ghi ở đây, ghi đầu tiên để thấy quan trọng, về 2 điều trong sự kính giữ Bồ tát giới Phạm võng.
Một là khi gặp nghịch cảnh thì nên nghĩ đến Phật, tưởng nhớ đến ngài. Điều này Pháp Hoa (phẩm 13) và Ưu bà tắc (Chính 24/1051) đều nói đến.
Hai là riêng người tại gia còn phải học việc đời (nghề nghiệp) cho tinh thông rồi kiếm của một cách hợp với Phật pháp. Ưu bà tắc dạy rõ như vậy (Chính 24/1048).

Rằm tháng 3, 2531 (1987)
Hòa Thượng Thích Trí Quang

Chương I: Dẫn Nhập
Tiết 1: Tài Liệu Sử Dụng
Năm 2505 (1961), tôi dịch giải Bồ tát giới Phạm võng chỉ có 6 tài liệu để sử dụng, và sử dụng nhiều nhất là bản chú thích của ngài Hoằng Tán (Vạn 60/387 462). Nay thì tài liệu khá nhiều, và tất cả đều nằm trong Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu (ký hiệu là Chính) và Tục tạng kinh bản chữ Vạn (ký hiệu là Vạn). Về chính văn, vẫn lấy Chính 24/1003 1010 làm căn bản; phụ vào là bản khắc in riêng của Phật giáo Bắc, mang tên Bồ tát giới kinh, bản này nay được tụng theo nếu tụng nguyên Hoa văn. Nhưng xin nói rõ rằng chính văn Bồ tát giới Phạm võng không phải chép như nhau. Đối chiếu thấy các bản tương đối xưa và bảo đảm hơn thì chép như nhau, trong đó có Chính 24/1003 1010, khác với các bản tương đối nay, trong đó có bản Bồ tát giới kinh vừa nói. Sự lựa chọn tất nhiên nghiêng về các bản xưa và bảo đảm hơn, nhưng không phải hoàn toàn theo các bản ấy, mà là chọn cách chép nào xét có lý hơn. Rất may sự khác nhau không nhiều lắm, cũng không quan trọng bao nhiêu, và tôi sẽ ghi rõ những chỗ cần thiết trong khi dịch giải. Còn tài liệu tham khảo thì quan trọng nhất là toàn văn Phạm võng (Chính 24/997 1010) và kinh Anh lạc (Chính 24/1010 1023), kế đó là 19 bản chú thích về Phạm võng: 17 bản nằm trong Vạn 59/192 đến Vạn 61/182; 1 bản nằm trong Vạn 95/1; 1 bản nằm trong Vạn 107/196, bản này là nghi thức sám hối về Bồ tát giới Phạm võng; 1 bản nằm trong Chính 62/4 262, tác phẩm của Nhật, tổng hợp rất đáng khen về các chú giải Bồ tát giới Phạm võng. Tài liệu tham khảo tuy nhiều như vậy, nhưng khi sử dụng thì cố đơn giản càng nhiều càng tốt.

Tiết 2: Các Bản Bồ tát Giới
Bồ tát giới có 4 bản. Bản 1 là của kinh Phạm võng, do ngài La Thập dịch. Bản 2 và 3 đều của luận Du Dà, nhưng do ngài Đàm Vô Sấm và ngài Huyền Trang dịch khác nhau. Bản 4 là của Ưu bà tắc giới kinh, cũng do ngài Đàm Vô Sấm dịch. Bản 1 phổ cập nhất. Các bản 2 và 3 ít phổ cập nhưng khá đặc biệt và vẫn có người thọ trì. Bản 4 không phổ cập.

Tiết 3: Giải Thích Đầu Đề
Dịch chủ La Thập chỉ dịch phẩm thứ 10 của kinh Phạm võng. Nay gọi là kinh Phạm võng chỉ là phẩm ấy. Phẩm ấy có cái tên mà chép đầy đủ thì như sau: Phật thuyết Phạm võng kinh, Lô Xá Na Phật thuyết Bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập: phẩm Tâm địa giới Bồ tát của đức Lô Xá Na nói, phẩm thứ 10 của kinh Phạm võng do đức Thích Ca tuyên thuyết.
Phạm võng là tràng lưới của Đại phạn thiên vương. Tràng lưới ấy các mắt kết ngọc, khác nhau mà ảnh hiện lẫn nhau, trùng trùng điệp điệp. Nhìn tràng lưới như vậy, Phật nói mọi thế giới cũng vậy, các pháp môn cũng vậy, vô cùng vô tận. Thích Ca là đức Phật bổn sư của chúng ta. Lô Xá Na nghĩa là chiếu soi khắp cả, danh hiệu của bản thân đức Thích Ca. Tâm địa giới Bồ tát là 30 tâm, 10 địa và 58 giới của Bồ tát tu tập thọ trì, và toàn là những pháp môn y như mắt lưới của tràng lưới Đại phạn thiên vương. Nội dung phẩm Tâm địa giới Bồ tát ấy có 2 phần thành 2 cuốn: cuốn trên là Bồ tát tâm địa (còn có tên là phẩm Pháp môn tâm địa) do đức Thích Ca nói bằng cách đưa thính chúng đến đức Lô Xá Na, hỏi để đức Lô Xá Na nói; cuốn dưới là Bồ tát giới (còn có tên là phần Giới pháp vô tận) do đức Thích Ca tụng lại giới pháp mà đức Lô Xá Na đã tụng khi nói về Bồ tát tâm địa. Như vậy là gián tiếp do đức Thích Ca tuyên thuyết cả.

Tiết 4: Phẩm 10 Với Phẩm Pháp Môn Tâm Địa
Trong chính văn, tên gọi phẩm 10 là Pháp môn tâm địa. Pháp môn tâm địa là 40 pháp môn, tức 30 tâm và 10 địa (cuốn trên, Chính 24/998). Nhưng sau 30 tâm và 10 địa, phẩm Pháp môn tâm địa còn có 10 giới nặng và 48 giới nhẹ, nghĩa là còn có phần Giới pháp vô tận (cuốn dưới, Chính 24/1009), vì đó "là giới pháp duy nhất mà đức bản thân Lô Xá Na của ta đã nói trong phẩm Pháp môn tâm địa của ngài, giới pháp mà từ khi mới phát tâm ngài vẫn thường tụng" (Chính 24/1003), là giới pháp mà "nay ta cứ nửa tháng nửa tháng tụng lại... Các người, những vị Bồ tát mới phát tâm cho đến những vị Bồ tát 10 phát thú 10 trưởng dưỡng 10 kim cang và 10 địa, cũng phải tụng y như vậy" (Chính 24/1004).
Liên quan điều này, rất nên nhìn sang kinh Anh lạc. Kinh ấy, sau khi nói về Bồ tát vị (Bồ tát tâm địa) cũng nói về Bồ tát giới. Trong Bồ tát giới, mỗi giới pháp vô tận (giới nặng) đều nói nếu phạm thì không còn là Bồ tát, mất hết 42 pháp hiền thánh (Bồ tát vị) (Chính 24/1020). Như vậy có nghĩa minh bạch nói Bồ tát giới là căn bản từ đầu đến cuối của Bồ tát vị. Điều này phụ cho Phạm võng khá nhiều: không những chứng minh sau Bồ tát vị nói Bồ tát giới mà còn giải thích vì sao.

Tiết 5: Thế Giới Phạm võng
Thắng ứng thân của Phật tên Lô Xá Na, hóa chủ Hoa tạng thế giới, tượng trưng bằng 1 hoa sen. Hoa tạng thế giới ấy có 1000 đại thiên thế giới, như hoa sen có 1000 cánh; hóa chủ 1000 đại thiên thế giới này là 1000 đức Thích Ca liệt thắng ứng thân, do thắng ứng thân của Phật hóa ra. Mỗi đại thiên thế giới có trăm ức tiểu thế giới, thành 1000 lần trăm ức tiểu thế giới; và hóa chủ là 1000 lần trăm ức đức Thích Ca liệt ứng thân, do 1000 liệt thắng ứng thân của Phật hóa ra. Đức Thích Ca bổn sư của chúng ta là 1 trong số 1000 lần trăm ức này. Và ức đây là ngàn vạn, trăm ức là 1 tỷ: là số lượng của đại thiên thế giới. Kinh Phạm võng, trong đó quan trọng và tổng kết là phẩm 10, phẩm Pháp môn tâm địa, được Phật nói với Phật và Phật nói cho chúng sinh, khắp trong thế giới Phạm võng như vậy.
Điều nên nói liền ở đây, là nói về thân Phật và cõi Phật như vậy, chỉ là nói thân và cõi của đức Thích Ca, chưa phải đã nói tất cả thân và cõi của chư Phật. Ngay thân và cõi của đức Thích Ca mà nói như vậy cũng chưa đủ: trên chưa thấu tự thọ dụng thân độ, dưới chưa gồm Phật hiện thân từ Bồ tát đến địa ngục, lại càng chưa gồm Phật hiện thân làm cảnh vật. Lại nữa, đây chỉ là nói thân và cõi Phật theo số lượng. Mà Phật thì siêu việt số lượng. Ngay đức Thích Ca bổn sư và cõi Phật của ngài mà thôi, ta thấy là liệt ứng thân, là tiểu thế giới nhỏ và bẩn, nhưng đối với Bồ tát đại căn thì là thắng ứng thân độ (tha thọ dụng thân độ): thân là vi trần tướng hải thân, độ là hoa tạng thế giới hải. Thế giới Phạm võng là như vậy.

Tiết 6: Sự Liên Hệ Của Phạm võng
Liên hệ sát và quan trọng nhất là với kinh Anh lạc, tài liệu mà tôi đã kê và đã nói đến phần nào trong tiết 1. Kế đó, Phạm võng là đồng bộ với Hoa nghiêm (Vạn 60/300B). Sau hết, bóng dáng kinh Phạn động (hay Phạm võng) của Trường a hàm cũng có đối với kinh Phạm võng ở đây. Chỉ khác là ở kia nói giới không bằng tuệ, khen Phật qua giới pháp không bằng hiểu Phật qua tuệ giác siêu việt 62 kiến chấp; ở đây trái lại, nói thật tướng bát nhã là căn bản của giới pháp và do giới pháp thể hiện. Nhưng sự liên hệ này chỉ do tôi đề cập. Một sự liên hệ khác cũng do tôi nghĩ, ấy là giới pháp Phạm võng rất gần với giới pháp Tỳ kheo; riêng sự ái hộ Tam bảo và Tăng bảo ái hộ lẫn nhau thì giới pháp Phạm võng nói rõ ràng, thực tế và thiết tha hơn. Do vậy mà giới pháp Phạm võng đặc biệt răn sự phản bội Phật pháp, chạy theo bạo quyền mà hại đạo và đồng đạo.

Tiết 7: Giới Hạn Tụng Bồ tát Giới Phạm võng
Bồ tát giới Phạm võng xưa chỉ bắt đầu từ văn chỉnh cú. Còn kết thúc thì có bản chỉ đến cây hỷ dược thọ trì (hoan hỷ và phấn chấn mà thọ trì), có bản hết trọn cuốn dưới. Có người phân khoa giải thích Phạm võng, mở đầu phần Bồ tát giới từ câu Nhĩ thời Thích Ca Mâu Ni Phật tùng sơ hiện Liên hoa đài tạng thế giới (Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni từ Hoa tạng thế giới mà khởi đầu ngài đã hiện ra ở đó). Lấy trọn từ đầu đến cuối cuốn dưới thì chỉ có một ít nhà chú thích Phạm võng và Bồ tát giới kinh được tụng hiện nay. Nay bản dịch này cũng làm như vậy. Dẫu rằng xét ra lấy từ văn chỉnh cú và kết thúc ở câu hỷ dược thọ trì thì gọn và xác hơn.
Đó là nói về chính văn. Còn nghi thức mở đầu tụng Bồ tát giới thì cũng chỉ Bồ tát giới kinh sau này mới có. Ngài Hoằng tán có chú thích nghi thức ấy (Vạn 60/457 461), nhưng cũng nói không biết do ai soạn, chỉ "xét tìm thì thấy phần nhiều trích ra từ Bồ tát giới bản kinh (của luận Du dà, do ngài Đàm Vô Sấm dịch) và giới bản của Hữu bộ". Nói tổng quát, nghi thức mở đầu ấy biến thể nghi thức tụng giới Tỳ kheo, nên biến thể thế nào cũng có bất ổn. Nhưng mở đầu Bồ tát giới Phạm võng thì không có lời lẽ mở đầu nào quan trọng và đặc biệt cho bằng trong chính văn đã tự có. Do đó, thiết nghĩ nghi thức mở đầu dùng cũng được, không cũng không thiếu sót gì, lại tránh được những sự miễn cưỡng và bất ổn. Trường hợp không dùng nghi thức mở đầu thì tụng bài kệ khai kinh rồi đi ngay vào chính văn là được.

Tiết 8: Đặc Chất Của Bồ tát Giới Phạm võng
Ở đây tôi bỏ hết mọi sự đặc biệt của Bồ tát giới Phạm võng mà tôi đã nói đến trong bản in năm 2505, chỉ nói lại 1 chi tiết mà thôi. Ấy là tính chất ái hộ Tam bảo, trong đó có sự ái hộ lẫn nhau của Tăng bảo. Ái hộ trước bạo lực và quyền lực đã đành, lại còn ái hộ trong đời sống và trong quyền lợi, nhất là ái hộ trong sự đối xử, ái hộ bằng cách không phản bội Phật pháp, chạy theo bạo quyền mà hại đạo và đồng đạo, thì Bồ tát giới Phạm võng đã biến mọi lời khuyên thành những điều luật, nhưng là điều luật đầy đạo tình và chính hướng giải thoát. Chỉ có đặc chất này mới giữ được đạo tình trong Tăng bảo, nhất là trong những lúc đạo tình ấy bạo lực và quyền lực không muốn có. Cảm khái nhất khi tụng Bồ tát giới Phạm võng là điều này đây.

Tiết 9: Bồ tát Giới Phạm võng Đối Với Người Tại Gia
Trong tiết 6 đã nói Bồ tát giới Phạm võng rất gần Tỳ kheo giới, vậy tại sao cho người tại gia thọ trì, mà lại cho khá rộng rãi như đã nói trong chính văn qui định điều kiện lãnh thọ? Vấn đề chưa thấy ở đâu nêu lên và giải thích. Nay xét thẳng chính văn thì thấy Bồ tát giới Phạm võng tuy phần nhiều nói cho xuất gia, nhưng có những giới nói chung cho cả tại gia xuất gia, có những giới nói chung mà tại gia nhiều hơn, có những giới chỉ nói cho tại gia (như giới 1 và giới 47 trong 48 giới nhẹ). Chính ở 2 giới nói cho tại gia này, cùng tất cả giới khác riêng cho xuất gia hay chung cho cả xuất gia tại gia, đều biểu thị rõ rệt sự duy trì Phật pháp. Giả sử chỉ có người xuất gia thọ trì Bồ tát giới Phạm võng để thực hiện sự duy trì ấy, còn người tại gia không thọ trì Bồ tát giới Phạm võng, nghĩa là không duy trì Phật pháp, thì sự xuất gia đã bị họ chướng ngại rồi, còn đâu để thực hiện được sự duy trì ấy! Nên, chính trong sự duy trì Phật pháp mà không những thấy người tại gia phải thọ trì Bồ tát giới Phạm võng, lại còn ngạc nhiên thấy sao Phật biết trước đến như vậy.

Chương 2: Dịch Giải Nghi Thức Tụng Bồ tát Giới Phạm võng
Trước khi tụng, vị tụng giới lạy và quì mà thưa: Con là Tỳ kheo XX, kính bạch Đại đức tăng, Đại đức tăng bảo con tụng giới, nhưng con e có sự lầm lẫn trong khi tụng, vậy kính xin Đại đức tăng từ bi chỉ bảo cho con.
Đây là lời tác bạch trước khi đi vào nghi thức, và là lời của vị Tăng sai tụng giới. Nếu tụng giới là vị thượng tọa trong buổi bố tát thì không cần tác bạch lời này. Điều kiện của sự tụng giới là tụng rõ ràng, và tụng ở đây là đọc một cách trang trọng, chứ không phải tụng như tụng kinh. Tụng rõ ràng là âm thanh rõ ràng, âm điệu đúng với mạch lạc giới văn.

Nghi thức tụng Bồ tát giới có 5 tiết.
Tiết 1: Qui Kính Khuyến Khích
Chúng Bồ tát giới lắng nghe!
Qui y kính lạy
đức Lô Xá Na,
và Kim cang Phật
khắp cả mười phương;
lại lạy phân thân
đức Lô Xá Na
là ngàn trăm ức
các đức Thích Ca.
Nay tôi kính tụng
về Bồ tát giới
mà đại cương là
ba loại tịnh giới;
chúng Bồ tát giới
hãy cùng lắng nghe!
Giới như ngọn đèn
đã sáng lại lớn,
có thể xua tan
bóng tối đêm dài;
giới như đài gương
trong sáng quí báu,
hiện rõ các pháp
đủ cả không sót;
giới lại y như
ngọc báu ma ni,
tuôn ra của cải
giúp kẻ khốn cùng.
Siêu thoát thế gian,
chóng thành Phật đà,
làm được như vậy
giới này hơn cả!
Vì lý do ấy
chúng Bồ tát giới
cần phải nỗ lực
kính cẩn mà giữ!
Đoạn chỉnh cú này lấy của Bồ tát giới Du dà, do ngài Đàm Vô Sấm dịch, nội dung kính Phật kính Giới và khuyến khích kiên trì. Kim cang Phật là các vị sau kim cang đạo thì phá dị thục thức, chứng bất hoại tánh, tức các vị viên mãn báo thân như đức Lô Xá Na. Các câu 5 - 8 là đổi cho đúng trường hợp Bồ tát giới Phạm võng. Trong đó câu là ngàn trăm ức có nghĩa một ngàn và một ngàn lần trăm ức. Nếu không đổi mà theo chính văn, thì phải dịch "lại xin kính lạy luận chủ Du dà, là Phật đương lai Từ thị Thế Tôn". Ba loại tịnh giới là "kết mọi giới pháp lại làm 3 môn: nhiếp thiện pháp giới là tám vạn bốn ngàn pháp môn; nhiếp chúng sinh giới là từ bi hỷ xả phổ cập chúng sinh, làm cho tất cả đều được an lạc; nhiếp luật nghi giới là mười giới pháp nặng làm chính yếu" (Anh lạc, Chính 24/1020).

Tiết 2: Sách Tiến Tu Tập
Chư đại đức, hôm nay bốn tháng của mùa xuân đã qua mất nửa tháng mà chỉ thiếu một đêm, còn lại chỉ thừa một đêm và ba tháng rưỡi. Già bịnh đã gần, Phật pháp sắp ẩn. Chư đại đức, và ưu bà tắc ưu bà di, muốn được đạo quả, các vị phải nhất tâm nỗ lực mà tinh tiến. Tại sao, vì đến như chư Phật cũng phải nhất tâm nỗ lực mà tinh tiến mới thành tựu vô thượng Bồ đề, huống chi những kẻ khác đang còn tu tập các thiện pháp khác. Các vị nghe như vậy thì trong lúc còn khỏe mạnh phải nỗ lực mà siêng tu thiện pháp, đâu được không cấp tốc cầu đạo mà đợi đến tuổi già. Đợi đến tuổi già là các vị còn muốn vui thú nỗi gì?
Ngày nay đã qua,
mạng sống cũng bớt,
như cá thiếu nước,
đâu có vui gì!

Đoạn này trừ 4 câu chỉnh cú cuối cùng, toàn lấy của giới bản Hữu bộ, nội dung nói sự vô thường để thúc dục cấp bách tu tập. Mùa xuân mới hết nửa tháng, còn đến 3 tháng rưỡi, nhưng không nói mới hết, còn đến, mà nói đã qua mất, chỉ còn lại, là dụng ngữ có ý. Sau đây là những chỗ cần ghi chú.
Ấn độ có 3 mùa, mùa xuân từ 16/12 đến 15/4, mùa hè từ 16/4 đến 15/8, mùa đông từ 16/8 đến 15/12. Tháng của Ấn độ lấy trăng bắt đầu tàn làm đầu tháng (tức đêm 16 mỗi tháng âm lịch) và lấy trăng thật tròn sáng làm cuối tháng (tức đêm rằm mỗi tháng âm lịch), không như âm lịch trăng bắt đầu có là đầu tháng, trăng đã tối hẳn là cuối tháng. Nhưng nửa tháng trăng sáng và nửa tháng trăng tối thì như nhau: nói theo ngày âm lịch thì 1, 15 là trăng sang. 16, 30 hay 29 là trăng tối. Bố tát tụng giới thì nửa tháng 1 kỳ, cử hành vào ngày cuối cùng nửa tháng (tức rằm và ba mươi hay hâm chín) và thường cử hành ban ngày, như vậy còn 1 đêm mới hết nửa tháng; 1 đêm ấy đối với nửa tháng trước là thiếu mà đối với nửa tháng sau là thừa. Lời trong tiết 2 này là nói trong kỳ bố tát tụng giới đầu năm lịch Ấn, tức cuối năm âm lịch. Những kỳ sau đó có 4 chỗ phải đổi mà ai cũng phải biết. Chỗ 1, bốn tháng phải thêm "và 1 tháng nhuận" nếu có tháng ấy; nhưng tháng nhuận ấy vẫn gọi theo tháng chính chứ không gọi riêng. Chỗ 2, mùa xuân tùy đó mà đổi: 16/4 - 15/8 đổi nói mùa hạ, 16/8 - 15/12 đổi nói mùa đông. Chỗ 3, nửa tháng tùy đó mà đổi theo bảng kê dưới đây, kê theo ngày tháng âm lịch cho dễ đổi, và chỉ lấy mùa xuân làm mẫu, 2 mùa hạ và đông so theo mà đổi.
hết tháng chạp: nửa tháng
rằm tháng giêng: một tháng
hết tháng giêng: một tháng rưỡi
rằm tháng hai: hai tháng
hết tháng hai: hai tháng rưỡi
rằm tháng ba: ba tháng
hết tháng ba: ba tháng rưỡi
rằm tháng tư: bốn tháng
Chỗ 4, ba tháng rưỡi thì tùy đó mà đổi theo bản kê dưới đây, cũng kê theo ngày tháng âm lịch và chỉ lấy mùa xuân làm mẫu.
hết tháng chạp: ba tháng rưỡi
rằm tháng giêng: ba tháng
hết tháng giêng: hai tháng rưỡi
rằm tháng hai: hai tháng
hết tháng hai: một tháng rưỡi
rằm tháng ba: một tháng
hết tháng ba: nửa tháng rằm
tháng tư: thừa một đêm

Tiết 3: Làm Phương Tiện Trước
Tăng tụ tập không?
Tăng hòa hợp không?
Tăng tụ tập hòa hợp để làm gì?
Những người chưa thọ Bồ tát giới, hay thọ mà không thanh tịnh, đã ra khỏi đây chưa?
Có bao nhiêu người thọ Bồ tát giới không đến tụ tập mà có dặn nhờ nói muốn và thanh tịnh?
Đây là kiểm điểm Tăng chúng, chuẩn bị và quyết định cho sự bố tát tụng giới cử hành được hay không. Sự kiểm điểm này, như vậy, rất quan trọng, và chỉ quan trọng cho Tỳ kheo tăng hay Tỳ kheo Bồ tát tăng.
Kiểm điểm bằng 5 câu hỏi, nhưng cần nhất là 2 câu đầu. Tăng chúng ở một chỗ, khi kiết ma bố tát tụng giới, phải đầy đủ 2 yếu tố thì việc ấy mới thành, ấy là tụ tập đông đủ, không ai vắng mặt mà không nói muốn và thanh tịnh; là hòa hợp với nhau, không ai tụ tập để chống phá. Nói cách khác, muốn kiết ma bố tát tụng giới thì Tăng chúng ở một chỗ phải thân và tâm cùng họp lại và ưng muốn; thân không họp lại mà tâm ưng muốn thì được, thân họp lại mà tâm không ưng muốn thì hỏng.
Nói muốn và thanh tịnh là dặn nhờ một hay hơn một vị khác, bạch với Tăng chúng, rằng mình ưng muốn việc kiết ma bố tát tụng giới và mình cũng thanh tịnh. Như vậy chỉ được phép nói muốn và thanh tịnh với lý do vì bận việc Tam bảo, vì bịnh hay vì coi bịnh, và với điều kiện là trong nửa tháng vừa qua không có phạm giới (mình tự biết không phạm giới, Tăng chúng cũng không ai thấy, nghe hay nghi mình phạm giới). Lời dặn nhờ có thể nói thông thường như sau, "Bạch đại đức, tôi là Tỳ kheo XX, vì lý do XX nên không thể tụ tập kiết ma bố tát tụng giới, nhưng đối với việc ấy tôi ưng muốn, và tôi cũng thanh tịnh. Xin nhờ đại đức bạch lại với Đại đức tăng như vậy". Dặn nhờ như vậy, nếu không nói được thì có thể ra dấu. Lời bạch lại cũng có thể nói thông thường như sau, "Bạch đại đức tăng, con là Tỳ kheo XX, có nhận lời dặn nhờ của Tỳ kheo XX, vắng mặt vì lý do XX, nhưng nửa tháng vừa qua vị ấy không có phạm giới. Vị ấy dặn nhờ con bạch lại với Đại đức tăng rằng, đối với việc kiết ma bố tát tụng giới hôm nay của Đại đức tăng, vị ấy nói muốn và thanh tịnh".
Cả 5 câu hỏi là của vị tụng giới, người trả lời là vị tri sự hay vị nào biết rõ tình trạng của Tăng chúng cùng ở một chỗ. Câu 1, không có ai vắng mặt, ai vắng mặt có nói muốn và thanh tịnh, thì trả lời "Tăng tụ tập". Câu 2, không có ai tụ tập với dụng ý để phá, cãi, thì trả lời "Tăng hòa hợp". Câu 3, trả lời "Để kiết ma bố tát tụng Bồ tát giới Phạm võng". Câu 4, có thì bảo ra và trả lời "Người chưa thọ Bồ tát giới, hay người thọ rồi mà không thanh tịnh, đã ra cả rồi"; nếu không có thì trả lời "Trong Tăng chúng đây không có người chưa thọ Bồ tát giới hay thọ rồi mà không thanh tịnh". Câu 5, có ai dặn nhờ nói muốn và thanh tịnh thì người được dặn nhờ bước ra mà bạch lại, không thì trả lời "Trong Tăng chúng đây không có người thọ Bồ tát giới không đến tụ tập mà có dặn nhờ nói muốn và thanh tịnh".

Tiết 4: Lời Tựa Mở Đầu
Chư Phật tử, hãy chắp tay lắng nghe. Nay tôi sắp nói đến lời mở đầu giới pháp rộng lớn của chư Phật, các vị tụ tập, yên lặng mà lắng nghe. Và tự xét có tội lỗi thì phải sám hối; sám hối thì yên vui, không sám hối thì tội lỗi càng sâu nặng. Không có tội lỗi thì yên lặng; do sự yên lặng ấy mà tôi biết các vị thanh tịnh.
Chư đại đức, và ưu bà tắc ưu bà di, hãy nghe cho kỹ. Sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, trong thời kỳ Phật pháp cuối cùng, càng phải tôn kính Ba la đề mộc xoa. Ba la đề mộc xoa là giới pháp này đây. Phụng trì giới pháp này thì như đêm tối mà gặp ánh sáng, như nghèo nàn mà được vàng ngọc, như bịnh tật mà được lành mạnh, như tù đày mà thoát lao ngục, như đi xa mà được về nhà. Phải biết giới pháp này là đức thầy cao cả của các vị. Đức Thế Tôn còn ở đời cũng không khác gì giới pháp này.
Lòng sợ tội lỗi khó mà sinh được, tâm có đức lành khó mà phát ra. Nên trong khế kinh đã dạy:
Đừng khinh tội lỗi nhỏ,
cho là không tai họa;
giọt nước tuy là ít,
chảy mãi đầy hồ lớn.
Tội lỗi gây chốc lát,
họa ở vô gián ngục;
một khi mất thân người,
muôn kiếp khó được lại.
Sự khỏe đẹp không bền,
qua mau như ngựa chạy;
mạng người vốn vô thường,
quá hơn nước núi đổ:
hôm nay dẫu còn đó,
ngày mai khó bảo tồn.
Các vị phải nhất tâm mà nỗ lực tinh tiến, cẩn thận đừng giải đải, đừng biếng nhác, đừng ham ngủ, đừng phóng ý. Thâu đêm cũng phải tập trung tâm ý lại mà tưởng niệm Phật pháp tăng. Đừng để đời mình trôi qua một cách trống rỗng, mệt nhọc một cách vô ích, để rồi sau đó phải hối hận sâu xa.
Các vị hãy nhất tâm, kính cẩn mà phụng hành cho thật chính xác đối với giới pháp này. Phải học như vậy.
Lời tựa này có trong Chính 24/1003. Có lẽ trước khi có nghi thức, sự mở đầu tụng Bồ tát giới Phạm võng chỉ có lời tựa này mà thôi. Lời tựa này kết hợp cả kinh Di giáo và Pháp cú, nhưng không có gì gượng ép vì chắp vá và biến thể như các tiết trước và sau tiết này. Lời tựa này được soạn khá sớm, vì câu thời kỳ Phật pháp cuối cùng, chính văn vốn là thời kỳ Phật pháp tương tự. Phật pháp tồn tại có 3 thời kỳ: nguyên chất (chánh pháp) tương tự (tượng pháp) và cuối cùng (mạt pháp). Mỗi thời kỳ có 1000 năm. Nay kỷ nguyên Phật giáo đã 2527 năm, là đã hơn một nửa thời kỳ cuối cùng.
Vô gián ngục là địa ngục kết quả của 5 tội nghịch (cũng gọi là 5 tội vô gián, 5 nghiệp vô gián). Năm tội nghịch là giết cha, giết mẹ, giết La hán, làm chảy máu thân Phật, phá Tăng hòa hợp. Thêm giết Hoà thượng và giết Xà lê vào nữa thì gọi là 7 tội nghịch, được nói đến trong giới nhẹ 40. Nhưng xét 5 tội nghịch còn như kinh Địa tạng nói, cho người xuất gia nhiều hơn nằm trong phẩm 3 của kinh ấy. Ở đó, sự phỉ báng Tam bảo và khinh thường kinh pháp cũng là làm chảy máu thân Phật. Trong 5 tội nghịch, tội phá Tăng hòa hợp nặng nhất, xét ra vì lẽ tội này làm rã Tăng hòa hợp mà thực chất là biệt lập giáo phái để làm giáo lãnh. Năm tội nghịch còn 1 pháp số nữa, của kinh Ni kiền tử: Một là phá hủy chùa tháp, đốt phá kinh tượng, chiếm đoạt của Tam bảo. Hai là phỉ báng tiểu thừa và đại thừa, phá hoại và trở ngại, làm cho các pháp ấy khuất lấp. Ba là bắt bớ, tù đày, tra tấn, hành hung, khinh khi, làm nhục, buộc hoàn tục hay hại tính mạng đối với người xuất gia. Bốn là làm 1 trong 5 tội nghịch thông thường (mà đã nói ở trên). Năm là bài bác nhân quả thiện ác, thường làm 10 ác nghiệp, không sợ đời sau, tự làm và xúc sử người làm mà ngoan cố không bỏ.
Kết quả của 5 tội nghịch là đọa vô gián ngục. Vô gián là không cách hở. Tuệ viễn đại sư, trong Đại thừa nghĩa chương, cuốn 7, nói 5 tội nghịch làm cho đọa vô gián ngục thì có 4 sự không cách hở. Một, nhân quả không cách hở: thân này chết rồi thì thân kế tiếp đọa vô gián ngục mà chịu liền quả báo của 5 tội nghịch, không có đời nào hay nghiệp gì làm cho cách hở nữa. Hai, chịu khổ không cách hở: đọa vô gián ngục thì trong một thời kỳ dài, khổ khổ liên tục, không có sự vui nào xen vào làm cho cách hở. Ba, sinh mạng không cách hở: đọa vô gián ngục thì trong một thời kỳ dài, chết đi sống lại liền liền mà sinh mạng không chết hẳn. Bốn, thân hình không cách hở: đọa vô gián ngục thì ai cũng thấy thân mình tràn đầy cả ngục, không chướng ngại cách hở lẫn nhau. Bốn sự này bao gồm đủ cả 5 sự đã nói trong phẩm 3 của kinh Địa tạng. Trong 4 sự, sự đầu rất quan trọng, Thành thật luận và Câu xá luận đều nói, chứng tỏ 5 tội nghịch rất khó cầu cho siêu độ.
Một khi mất thân người muôn kiếp khó được lại là nói thân người rất quí. Nói theo trường hợp Bồ tát giới Phạm võng thì có thân mới thọ và trì được giới pháp ấy. Do vậy, đem thân người làm những việc mệt nhọc một cách vô ích, có hại, đã đành đáng trách, nhưng lối thuyết pháp thóa mạ, khinh thị thân thể, cũng không phải là thái độ hợp ý với Phật.

Tiết 5: Chất Vấn Thanh Tịnh
Chư đại đức, hôm nay là ngày mười lăm của nửa tháng trăng tối, ngày bố tát tụng Bồ tát giới. Các vị hãy nhất tâm mà nghe cho khéo. Ai có lỗi thì xin nói ra, ai không lỗi thì xin yên lặng. Yên lặng nên biết chư vị đại đức thanh tịnh, có thể tụng Bồ tát giới. Như vậy là tôi đã nói lời mở đầu Bồ tát giới. Nay xin hỏi, chư đại đức, trong các vị có thanh tịnh cả không? Chư đại đức, các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng yên lặng. Việc ấy tôi xin ghi nhận như vậy.
Đây là biến thể lời tác bạch kiết ma bố tát tụng giới mà thành sự chất vấn thanh tịnh. Nay xin hỏi, chư đại đức, trong các vị có thanh tịnh cả không, là hỏi trong nửa tháng vừa qua, có ai phạm giới không. Không ai phạm giới mới có thể tụng giới.
Việc này tôi xin ghi nhận như vậy, chính văn là thị sự như thị trì. Chữ trì nghĩa đen là nắm giữ, ở đây là nắm giữ trong trí, tức là nói về sự ghi nhớ, về ký ức, và ở đây là xác nhận. Nên chữ ấy đi đôi với chữ thọ thì thọ trì nghĩa là tiếp nhận và ghi nhớ. Nghĩa chữ trì như vậy nên đã được cắt nghĩa là liễu đạt bất vong (thấu hiểu không quên). Thị sự như thị trì, dịch sát là việc ấy tôi nắm chắc như vậy (nghĩa là hiểu và nhớ như vậy). Nhưng chữ nắm chắc rất nên chuyển ra chữ ghi nhận cho sát việc và dễ hiểu hơn. Chủ từ tôi phải thêm, vì đây là lời của vị tụng giới. Nói giản dị, vị tụng giới nói, "các ngài thanh tịnh, vì các ngài yên lặng: việc này tôi xin ghi nhận như vậy".
Tiết này có vài chỗ cần chú ý. Một, hết tháng thì nói trăng tối, rằm thì nói trăng sáng; trăng tối thì ngày 15 có khi phải đổi ra 14 nếu tháng ấy thiếu. Hai, câu nay tôi xin hỏi, chư đại đức, trong các vị có thanh tịnh cả không, phải nói 3 lần, sau mỗi lần phải đợi vài ba giây.
Tụng giới xong, vị tụng giới đứng dậy mà thưa, Bạch Đại đức tăng, con là Tỳ kheo XX, xin kính tạ lỗi Đại đức tăng; Đại đức tăng bảo con tụng Bồ tát giới, nhưng thân miệng ý của con không tinh cần, tụng giới văn không thông suốt, làm cho chư vị ngồi lâu hơn lên, không khỏi phát phiền. Con xin chư vị từ bi hoan hỷ cho con.
Cũng như lời tác bạch đầu tiên, lời tác bạch này, nếu vị tụng giới là thượng tọa trong buổi bố tát thì không cần nói.

Chương 3: Dịch Giải Chính Văn Bồ tát Giới Phạm võng
Bồ tát giới Phạm võng
là giới pháp vô thượng,
trăm ngàn vạn ức kiếp
vẫn khó mà gặp được;
nay con đã thấy nghe
lại còn được thọ trì,
nguyện cầu sớm thành tựu
pháp tánh thân thường trú.
Kính lạy đức Lô Xá Na Như Lai. Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Kính lạy kho tàng Bồ tát giới Phạm võng.
Đây là bài kệ khai kinh và kính lạy giáo chủ Bồ tát giới Phạm võng. Bài kệ khai kinh này là bài thông thường mà tôi đổi và dịch cho đúng với trường hợp tụng Bồ tát giới Phạm võng. Pháp tánh thân thường trú là như chính văn sau đây nói, "Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, nên toàn bộ thân tâm của chúng sinh, thân ấy tâm ấy đều nhập vào trong giới pháp Phật tánh, và đương nhiên có cái nhân như vậy thì đương nhiên thực hiện pháp thân thường trú". Chú thích: nhập vào trong giới pháp Phật tánh là thọ và trì giới pháp ấy.
Bài kệ khai kinh này, Bồ tát giới kinh để nguyên và đặt trước nghi thức mở đầu. Để và đặt như vậy không thích hợp ý nghĩa mà cũng không thích hợp nghi thức.
Kinh Phạm võng, phẩm thứ 10
"Tâm địa giới Bồ tát của
đức Lô Xá Na tuyên thuyết", phần dưới
Đầu đề này đã giải thích trong chương dẫn nhập. Nay chỉ giải thích chính văn.

Tiết 1: Mở Đầu Về Bồ tát Giới Phạm võng
Số 1: Đức Lô Xá Na Tổng Kết Về Phẩm Pháp Môn Tâm Địa
Khi ấy đức Lô Xá Na đã vì đại chúng mà khai thị một cách tóm tắt, chỉ bằng đầu sợi lông, về pháp môn tâm địa, một trong các pháp môn nhiều đến số lượng không thể nói hết, như cát của trăm ngàn sông Hằng. Và kết thúc rằng, pháp môn tâm địa ấy hết thảy chư Phật quá khứ đã nói, chư Phật vị lai sẽ nói, chư Phật hiện tại đang nói, tất cả Bồ tát trong quá khứ vị lai và hiện tại đã học sẽ học và đang học. Như Lai đã trải qua cả trăm vô số kiếp tu hành tâm địa ấy, kết quả thành Phật, danh hiệu Lô Xá Na. Chư vị Phật đà, các ngài hãy chuyển pháp môn của Như Lai đã nói cho hết thảy chúng sinh, khai thị tâm địa cho họ. Bấy giờ trên Sư tử tòa sáng chói rực rỡ ở Liên hoa đài, tức Hoa tạng thế giới, đức Lô Xá Na phóng ra ánh sáng, khuyến cáo một ngàn đức Thích Ca trên một ngàn cánh hoa, rằng các ngài hãy đem phẩm Pháp môn tâm địa của Như Lai mà đi, nói lại một cách tuần tự phẩm ấy cho một ngàn lần trăm ức đức Thích Ca, và hết thảy chúng sinh, với lời khuyến cáo rằng các người hãy thọ trì, đọc tụng, nhất tâm mà phụng hành.
Đây là đức Lô Xá Na tổng kết về phẩm Pháp môn tâm địa mà trong đó có phần Giới pháp vô tận (Bồ tát giới) khuyến cáo chư Phật hóa thân chuyển dạy pháp môn ấy cho chúng sinh.
Sư tử tòa là Phật như sư tử, Phật ngồi ở đâu chỗ ấy cũng gọi là sư tử tòa. Sư tử tòa ở đây của đức Lô Xá Na, và chư Phật hóa thân của ngài, là ở Hoa tạng thế giới. Hoa tạng thế giới tượng trưng như Liên hoa đài (đài sen), nên gọi đủ là Liên hoa đài tạng thế giới. Tách ra, chuyển dịch "Liên hoa đài, tức Hoa tạng thế giới" là để ăn liền với ngàn cánh hoa ở câu dưới. Liên hoa đài cũng là từ ngữ dùng trong văn chỉnh cú ở dưới.
Đưa đại chúng đến hỏi để đức Lô Xá Na nói về pháp môn tâm địa là ngàn lần trăm ức đức Thích Ca, nhưng đức Lô Xá Na gọi ngàn đức Thích Ca mà nói, ấy là Phật nói với Phật về tâm địa; còn ngàn đức Thích Ca nói với ngàn lần trăm ức đức Thích Ca, ấy là Phật nói với Phật về cách nói tâm địa cho chúng sinh. Nói một cách tuần tự cho ngàn lần trăm ức đức Thích Ca, và hết thảy chúng sinh, câu này nói tắt, nói rõ thì phải là nói cho ngàn lần trăm ức đức Thích Ca để chư Phật ấy dạy lại cho hết thảy chúng sinh, khuyến cáo chúng sinh thọ trì tâm địa. Nói một cách tuần tự là nói bằng 10 chỗ thuyết pháp.

Số 2: Chư Phật Chuyển Dạy Phẩm Pháp Môn Tâm Địa Cho Chúng Sinh
Khi ấy một ngàn đức Thích Ca trên một ngàn cánh hoa, và một ngàn lần trăm ức đức Thích Ca, đều đứng dậy từ Sư tử tòa rực rỡ ở Hoa tạng thế giới. Ngài nào cũng cáo thoái bằng cách khắp mình phóng ra ánh sáng bất khả tư nghị, cùng hóa hiện vộ lượng đức Phật nữa, và cùng trong một lúc dùng vô số sắc hoa xanh vàng đỏ trắng hiến cúng đức Lô Xá Na, tiếp nhận và ghi nhớ trọn vẹn phẩm Pháp môn tâm địa mà ngài đã tuyên thuyết. Rồi các ngài từ Hoa tạng thế giới ẩn đi. Aẫn rồi nhập định tên Bông hoa ánh sáng của thể tánh thanh tịnh in như hư không, trở về dưới cây Bồ đề ở châu Diêm phù của thế giới mình, xuất định nói trên, ngồi trên Kim cang tòa đầy bông hoa ánh sáng, và tại Diệu quang đường nói về mười biển cả thế giới, lại rời chỗ ấy đến Đế thích cung nói về mười trú, đến Diệm thiên nói về mười hành, đến Đâu suất thiên nói về mười hướng, đến Hóa lạc thiên nói về mười định, đến Tha hóa thiên nói về mười địa, đến Sơ thiền nói về mười kim cang, đến Nhị thiền nói về mười nhẫn, đến Tam thiền nói về mười nguyện, đến cung Đại tự tại thiên vương thuộc Tứ thiền nói lại phẩm Pháp môn tâm địa mà bản thân là đức Lô Xá Na ở Hoa tạng thế giới đã nói. Toàn thể một ngàn lần trăm ức đức Thích Ca đều làm như vậy, không khác gì nhau, như phẩm Hiền kiếp đã nói.
Đây là chư Phật hóa thân chuyển dạy phẩm Pháp môn tâm địa cho chúng sinh bằng cách thị hiện 8 tướng thành đạo và 10 chỗ thuyết pháp.
Định tên Bông hoa ánh sáng của thể tánh thanh tịnh in như hư không, nói vắn tắt và nói cách khác, là diệu dụng của bản tánh thanh tịnh; diệu dụng ấy là thị hiện 8 tướng thành đạo và 10 chỗ thuyết pháp. Nhập định rồi xuất định ấy là từ bản tánh thanh tịnh mà hiện khởi diệu dụng như vậy. Trở về dưới cây Bồ đề ở châu Diêm phù của thế giới mình, xuất định nói trên, ngồi trên Kim cang tòa là nói tắt về sự thị hiện 8 tướng thành đạo.
Trong 10 chỗ thuyết pháp, Kim cang tòa đầy bông hoa ánh sáng, cũng có thể dịch Kim cang tòa rực rỡ hoa myծ Kim cang tòa này ở dưới Bồ đề thọ của Tịch diệt tràng. Cách 3 dặm về phía đông nam của Tịch diệt tràng là Diệu quang đường (Phổ quang minh điện). Tại chỗ thứ 1 này chư Phật nói về 10 biển cả thế giới, là nói về vi trần thế giới nói về vô tận Hoa tạng thế giới, thế giới Phạm võng. Còn 8 chỗ kế tiếp nói về Bồ tát hạnh vị. Hạnh vị ấy tuy có 8 số 10, nhưng chính yếu là 30 tâm (10 trú 10 hạnh 10 hướng) và 10 địa, còn những hạnh vị khác chỉ chuẩn bị (10 tín, chính văn này lược đi) hay bổ túc. Đến chỗ thứ 10 nói lại phẩm Pháp môn tâm địa mà, như đã nói, trong đó có Bồ tát giới. Ngang đây lẽ đáng còn phải có câu như chính văn số 2 của đoạn 2 sau đây nói, "Rồi từ cung thiên vương ấy trở xuống ngồi dưới cây Bồ đề của châu Diêm phù, vì hết thảy chúng sinh phàm phu mê ám trên đất này, nói lại giới pháp duy nhất mà đức bản thân Lô Xá Na đã nói trong phẩm Pháp môn tâm địa của ngài".
Và như vậy, Bồ tát giới được từ đức Phật bản thân đến chư Phật hóa thân đều nói, tại Liên hoa đài, tại Đại tự tại thiên cung, tại Bồ đề thọ.
Về pháp đã thuyết qua 10 chỗ, cuối Bồ tát giới Phạm võng tổng kết như sau, "Nói tóm, ngàn lần trăm ức thế giới, Hoa tạng thế giới, và các Hoa tạng thế giới khác nhiều như vi trần, cũng diễn về tất cả kho tàng chánh pháp của chư Phật là kho tàng tâm, kho tàng địa, kho tàng giới, kho tàng vô lượng hạnh nguyện và kho tàng nhân quả Phật tánh thường trú".

Số 3: Đức Thích Ca Bổn Sư Tự Thuật Ngài Cũng Chuyển Dạy Phẩm Pháp Môn Tâm Địa Như Chư Phật
Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni từ Hoa tạng thế giới mà khởi đầu ngài đã hiện ra ở đó, hướng về phía đông, đi vào cung thiên vương, nói xong kinh Ma vương chịu giáo hóa, rồi hạ sinh ở nước Ca di la thuộc châu Diêm phù, mẹ là hoàng hậu Ma da, cha là hoàng đến Bạch tịnh, "Như Lai tên Tất đạt, bảy năm xuất gia, thành đạo lúc ba mươi tuổi, danh hiệu Thích Ca Mâu Ni, đầu tiên ngồi Kim cang tòa đầy bông hoa ánh sáng tại Tịch diệt tràng, cuối cùng đến cung Đại tự tại thiên vương, tuần tự thuyết pháp cả mười chỗ". Trong khi thuyết pháp tại cung Đại tự tại thiên vương, đức Thích Ca Mâu Ni nhìn tràng lưới của các Đại phạn thiên vương, nhân đó nói với họ, rằng vô lượng thế giới in như mắt lưới, mỗi mỗi khác nhau, vô cùng vô tận; pháp môn đức Lô Xá Na dạy cũng y như vậy. Như Lai nay đến thế giới này đã tám ngàn lần, vì cả thế giới Sa bà mà ngồi Kim cang tòa đầy bông hoa ánh sáng, nói về mười biển cả thế giới, cho đến đến cung Đại tự tại thiên vương này, tóm tắt khai thị hoàn tất phẩm Pháp môn tâm địa cho đại chúng ở đây.
Đây là đức Thích Ca bổn sư tự thuật ngài cũng chuyển dạy phẩm Pháp môn tâm địa cho chúng sinh bằng 8 tướng thành đạo và 10 chỗ thuyết pháp; nói cách khác, ngài cũng thể hiện diệu dụng của định Bông hoa ánh sáng của thể tánh thanh tịnh.
Thích Ca Mâu Ni, hay Thích Ca, ở đây là đức Thích Ca bổn sư. Ngài cũng thị hiện 8 tướng thành đạo và 10 chỗ thuyết pháp. Tám tướng thành đạo là giáng thần, nhập thai, trú thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Sự tích như sau. Giáng thần là từ nội viện Đâu suất, Phật giáng thần bằng hình tướng cỡi voi trắng mà xuống vương cung Bạch tịnh. Nhập thai là Phật nhập vào hông trái của hoàng hậu Ma da. Trú thai là Phật ở trong thai mà không hôn mê, vẫn thuyết pháp cho chư thiên. Xuất thai là ngày trăng tròn tháng tư, từ hông phải của hoàng hậu Ma da, Phật sinh ra ở hoa viên Lâm tỳ ni. Xuất gia là 25 (23?) tuổi, Phật thoát vương cung, vào núi học đạo. Thành đạo là sau 6 năm khổ hạnh, và sau khi ngồi trên tòa Kim cang, hàng phục ma vương, Phật thành chánh giác dưới gốc Bồ đề. Chuyển pháp luân là Phật thuyết pháp, quảng độ chúng sinh trong 50 năm. Nhập niết bàn là 80 tuổi, Phật nhập diệt dưới cây Sa la song thọ. Cả 8 tướng như vậy đều là sự thị hiện, và nói thị hiện, hay nói đức Lô Xá Na hóa ra đức Thích Ca, là như thế đó, chứ không phải như là ảo thuật. Cả 8 tướng như vậy toàn là tác dụng độ sinh, chứ không phải chỉ có thuyết pháp mới độ sinh. Và cả 8 tướng như vậy hợp thành một đức Phật liệt ứng thân, nói cách khác, toàn là "bông hoa ánh sáng của thể tánh thanh tịnh". Chính văn trên đây, 8 tướng này nói đã lược, lại lược luôn cả chữ thị hiện.
Hướng về phía đông là vì Sa bà thế giới ở về phía đông Hoa tạng thế giới. Vào cung thiên vương là cung Đại tự tại thiên vương (Vạn 60/334B) Tịch diệt tràng là Bồ đề tràng; ở đó hóa thân của Phật thị hiện chứng hữu dư niết bàn nên gọi là Tịch diệt tràng, thị hiện chứng vô thượng Bồ đề nên gọi là Bồ đề tràng.
Nói thế giới và pháp môn mà ví dụ như Phạm võng, là nói đạo lý trùng trùng duyên khởi. Thị hiện 8 tướng thành đạo ở Diêm phù, 1 trong 1 tỷ thành phần của đại thiên thế giới Sa bà, mà nói "vì cả thế giới Sa bà mà thuyết pháp 10 chỗ", thì biết đức Thích Ca bổn sư không phải chỉ là một chiều thuộc về số lượng ngàn lần trăm ức đức Thích Ca hóa thân, thế giới ngài giáo hóa cũng không phải là một chiều thuộc về số lượng ngàn lần trăm ức tiểu thế giới. Tóm tắt khai thị hoàn tất phẩm Pháp môn tâm địa tức là cũng đã tóm tắt tụng lại Bồ tát giới (phần Giới pháp vô tận trong phẩm Pháp môn tâm địa) cho các vị đại căn đương cơ ở Đại tự tại thiên cung, chứ không phải chỉ nói Bồ tát tâm địa còn Bồ tát giới về Diêm phù mới nói.

Số 4: Đức Thích Ca Bổn Sư Nói Sẽ Nói Lại Bồ tát Giới Phạm võng
Rồi từ cung thiên vương ấy, Như Lai trở xuống, ngồi dưới cây Bồ đề của châu Diêm phù, vì hết thảy chúng sinh phàm phu mê ám trên đất này, nói lại giới pháp duy nhất mà đức bản thân Lô Xá Na của Như Lai đã nói trong phẩm Pháp môn tâm địa của ngài, giới pháp mà từ khi mới phát tâm ngài đã thường tụng. Giới pháp ấy như ngọc kim cang sáng chói, và là bản nguyên của chư Phật, của Bồ tát, là hạt giống Phật tánh. Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, nên toàn bộ thân tâm của chúng sinh, thân ấy tâm ấy đều nhập vào trong giới pháp Phật tánh, và đương nhiên có cái thân như vậy thì đương nhiên thực hiện pháp thân thường trú. Về mười Ba la đề mộc xoa mà Như Lai sẽ nói lại sau đây, khi xuất hiện ở thế giới này, thì đó chính là giới pháp của Phật pháp, là giới pháp mà hết thảy chúng sinh trong quá khứ vị lai và hiện tại nên kính phụng thọ trì. Như Lai sắp sửa vì cả đại chúng ở đây mà trùng tuyên phần Giới pháp vô tận giới pháp của hết thảy chúng sinh, bản nguyên là tự tánh thanh tịnh.
Đây là đức Thích Ca bổn sư nói sẽ nói lại Bồ tát giới Phạm võng (Giới pháp vô tận) cho chúng sinh Diêm phù, Bồ tát giới mà bản thân Lô Xá Na của ngài đã nói trong phẩm Pháp môn tâm địa và đã tụng từ khi mới phát tâm, cho đến thành Phật rồi cũng vẫn thường tụng.
Như Lai trở xuống, ngồi dưới cây Bồ đề của châu Diêm phù, vì hết thảy chúng sinh phàm phu mê ám trên đất này, nói lại giới pháp duy nhất mà đức bản thân Lô Xá Na của Như Lai đã nói trong phẩm Pháp môn tâm địa của ngài, giới pháp mà từ khi mới phát tâm ngài vẫn thường tụng là nói Bồ tát giới là giới pháp mà thánh phàm cùng được truyền thọ và thọ trì. "Nói lại giới pháp duy nhất..." chính văn là thuyết ngã bản Lô Xá Na Phật tâm địa trung sơ phát tâm trung thường sở tụng nhất giới. Tâm địa ở đây không phải là nhân địa để dịch tu nhân, mà là gọi tắt tên phẩm Pháp môn tâm địa như đã gọi như vậy ở đoạn đầu và còn gọi như vậy ở đoạn cuối Bồ tát giới Phạm võng. Phật tụng giới, không phải chỉ tụng trong khi tu nhân, lại càng không phải chỉ tụng lúc mới phát tâm. Cả chính văn chỉnh cú và trường hàng trong đoạn 1 mục 2 và đoạn 2 mục 3 sau đây sẽ chứng tỏ từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật rồi, Phật vẫn thường tụng. Chưa thành Phật thì tụng để được thành, thành Phật rồi thì tụng để truyền thọ như Phật bản thân tụng lại và Phật hóa thân tụng lại nữa, tụng thành Bồ tát giới Phạm võng này đây.
Phật tánh ở đây vừa có nghĩa bản thể vừa có nghĩa khả năng: bản thể là Phật, và khả năng làm Phật, gọi là Phật tánh. Bản thể và khả năng ấy, chính là thân tâm chúng ta đây. Như vậy, vì chúng sinh có Phật tánh, nên thân là thân chúng sinh, tâm là tâm chúng sinh, mà thân tâm ấy vẫn có thể thọ và trì được giới pháp Phật tánh, nên chính văn nói "Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, nên toàn bộ thân tâm của chúng sinh, thân ấy tâm ấy đều nhập vào trong giới pháp Phật tánh".
Câu trên đây, chính văn là nhất thế chúng sinh giai hữu Phật tánh, nhất thế ý thức sắc tâm, thị tình thị tâm giai nhập Phật tánh giới trung. Trước hết, phải hiểu các chữ ý, thức, sắc, tâm, tình, tâm. Ý, thức, tâm, 3 chữ ấy chỉ là "một nghĩa mà khác tên", vậy có thể và cần phải gồm lại mà chỉ nói là tâm, cho rõ và đủ hơn. Còn sắc ở đây là 5 sắc căn, tức nhãn căn cho đến thân căn; 5 căn này ngài La Thập cũng hay dịch là ngũ tình. Việc này không những thấy trong Pháp hoa (như phẩm 24), mà Trí độ luận (như cuốn 40) nói càng rõ, "5 tình là mắt vân vân, gọi là nội thân; 5 trần là sắc vân vân, gọi là ngoại thân". Như vậy thì chữ sắc ở đây cũng chính là chữ tình ở đây. Và sắc hay tình là 5 căn, là chính cái thân tổng hợp 5 giác quan, vậy có thể và cần phải gồm lại mà chỉ nói là thân, cho rõ và sát hơn. Sát hơn, vì lẽ Bồ tát giới cũng như bao nhiêu giới pháp khác, không có thân như chư thiên Vô sắc giới thì không thọ được, nên chính văn đoạn 3 mục 3 sau đây kể ai cũng được thọ Bồ tát giới mà không kể chư thiên Vô sắc giới. Vậy thì biết thân là yếu tố cần nhất trong việc thọ và trì giới pháp Phật tánh, thân là Phật tánh.
Nên nói thêm chút nữa. Nói Phật tánh mà chỉ nói tâm thì không ai lạ gì, nhưng nói thân vào (nói sắc vào) thì có nhiều người lúng túng. Lúng túng đến nỗi phải lướt bỏ chữ sắc đi, lại hiểu chữ tình là tình thức. Lúng túng như vậy là quên đi rằng, nói Phật tánh thì đúng là nói tâm, nhưng tâm ấy là tâm tánh, gồm cả thân tâm và ngoại cảnh: toàn bộ thân tâm và ngoại cảnh của tâm tánh đều bản thể là Phật, đều thành khả năng làm Phật, nên gọi là Phật tánh cả. Phải hiểu như vậy về chữ Phật tánh, nhất là chữ ấy ở đây. Và hiểu như vậy thì thấy chữ sắc trong 6 chữ ý, thức, sắc, tâm, tình, tâm, chữ sắc ấy đúng là sắc căn (nội sắc), nhưng nếu hiểu thêm rằng chữ sắc ấy cũng chỉ cho cả trần cảnh (ngoại sắc), thì dẫu quá xa cũng vẫn đúng. Đúng, vì không cần luận đến bản thể mà chỉ nói sự dụng, thì ngoại cảnh cũng là phương tiện và khả năng giúp cho sự thọ trì Bồ tát giới, thực hiện Phật tánh.
Sau hết, chính văn chỗ này có một định thức: có Phật tánh thì có thể thọ trì Phật giới, thọ trì Phật giới thì thành tựu Phật quả là pháp thân thường trú.
Mười ba la đề mộc xoa là 10 giới nặng. Nói về Bồ tát giới, phần nhiều hay nói 10 giới nặng ấy, vì 10 giới nặng ấy là căn bản, còn 48 giới nhẹ toàn là đẳng lưu. Nói 10 giới nặng xuất hiện thế gian là nói Bồ tát giới xuất hiện, và 10 giới nặng ấy cũng gọi là 10 giới pháp vô tận hay phần Giới pháp vô tận.
Về 10 giới pháp vô tận, kinh Anh lạc cũng gọi như vậy, và cũng có ý như Phạm võng, chỉ thứ tự có xê xích chút ít. Gọi là giới pháp vô tận, vì giới pháp ấy thọ rồi, đời này đời khác, vẫn thường không mất, đi theo hành giả cho đến thành Phật, lại nữa, giới pháp ấy lấy tâm làm thể, tâm vô tận nên giới vô tận (Anh lạc, Chính 24/1020).
Giới pháp của Phật pháp, chính văn chỉ là pháp giới. Nhưng do từ ngữ Phật pháp trung giới tạng (giới tạng trong Phật pháp, kho tàng giới pháp trong Phật pháp) trong đoạn 3 mục 2 sau đây, và từ ngữ chư Phật pháp giới (giới pháp của Phật pháp) ở đầu đoạn 2 mục 3 sau đây nữa, mà biết pháp giới là gọi tắt những từ ngữ ấy, nên phải dịch rõ ràng như vậy. Giới pháp của hết thảy chúng sinh, bản nguyên là tự tánh thanh tịnh là gián tiếp định nghĩa về giới: giới là tự tánh thanh tịnh, nên giới là của chúng sinh. Vì giới là của chúng sinh như vậy, nên chúng sinh có thể và nên thọ trì. Và giới là tự tánh thanh tịnh của chúng sinh, đó cũng là một cách nói về xuất xứ của Bồ tát giới Phạm võng.
Đọan 1: Đức Thích Ca Bổn Sư Thuật Lời Đức Phật Bản Thân Tụng Bồ tát Giới
Như Lai Lô Xá Na
an tọa Liên hoa đài,
xung quanh Liên hoa đài
có cả một ngàn cánh.
Trên ngàn cánh hoa ấy
Như Lai hiện ngàn Phật,
tất cả đồng một hiệu
hiệu Thích Ca Thế Tôn.
Mỗi cánh hoa nói trên
có trăm ức thế giới,
mỗi thế giới lại có
một đức Thích Ca nữa;
các đức Thích Ca này
cùng trong một thì gian
ngồi dưới Bồ đề thọ
thành tựu vô thượng giác.
Ngàn và ngàn trăm ức
đức Thích Ca nói trên,
toàn thể chỉ là một
bản thân Lô Xá Na.
Một ngàn lần trăm ức
đức Thích Ca như vậy
cùng tiếp dẫn đại chúng
số lượng như vi trần,
tất cả đều đưa đến
chỗ Như Lai an tọa,
để nghe Như Lai tụng
giới pháp của chư Phật.
Như Lai tụng hoàn tất
giới pháp của chư Phật
là cửa ngõ Cam lộ
tức thì được khai mở.
Các câu 21 - 28 là nói ngàn trăm ức đức Thích Ca đưa đại chúng đến chỗ đức Lô Xá Na, hỏi để ngài nói phẩm Pháp môn tâm địa, lại nghe ngài tụng Bồ tát giới thành phần Giới pháp vô tận của phẩm Pháp môn tâm địa. Đối với tâm địa thì nói Phật nói, đối với giới pháp thì nói Phật tụng, chữ tụng ấy đưa Bồ tát giới Phạm võng lên tột đỉnh của sự quan trọng. Cửa ngõ Cam lộ là niết bàn: niết bàn là thần dược bất tử, nên cũng có tên Cam lộ.
Đoạn 2: Đức Thích Ca Bổn Sư Thuật Sự Tụng Lại Bồ tát Giới Của Chư Phật Hóa Thân
Bấy giờ ngàn trăm ức
đức Thích Ca Thế Tôn
về lại Bồ đề tràng
ngồi dưới Bồ đề thọ,
cùng tụng lại giới pháp
của đức Phật bản thân,
gồm có mười giới nặng
và bốn tám giới nhẹ.
Giới pháp ấy in như
vầng thái dương sáng chói
ánh trăng rằm quang rạng
và chuổi ngọc quí báu;
hết thảy các Bồ tát
nhiều như số vi trần,
đều do giới pháp này
mà thành Đẳng chánh giác.
Tám câu cuối cùng là tán dương năng lực của Bồ tát giới: giới ấy thực hiện trí tuệ như nhật nguyệt và viên mãn phước đức như chuổi ngọc, nên làm cho vi trần Bồ tát được thành Phật đà. Đó là lý do vì sao đức Phật bản thân đã tụng ra và chư Phật hóa thân còn tụng lại về Bồ tát giới. Đẳng chánh giác hay chánh biến tri, là tuệ giác của Phật chứng ngộ một cách như sở hữu tánh về bản thể và tận sở hữu tánh về hiện tượng.
Đoạn 3: Đức Thích Ca Bổn Sư Mở Đầu Để Tụng Lại Bồ tát Giới Y Như Chư Phật Hóa Thân
Giới pháp đức bản thân
Lô Xá Na đã tụng,
Như Lai cũng tụng lại
hoàn toàn y như vậy.
Nên tất cả các người
Bồ tát mới tu học,
hãy hết lòng tôn kính
thọ trì giới pháp ấy.
Các người đã thọ trì
giới pháp như vậy rồi,
lại đem giới pháp ấy
chuyền trao cho chúng sinh.
Vậy tất cả các người
hãy chú ý lắng nghe
Như Lai tụng chính xác
giới tạng trong Phật pháp.
Giới tạng ấy chính là
Ba la đề mộc xoa,
nên hết thảy đại chúng
chí tâm mà thâm tín;
thâm tín rằng chính mình
là đức Phật sẽ thành
y như Như Lai đây
là đức Phật đã thành,
thường thâm tín như vậy,
giới pháp đã đầy đủ.
Bất cứ là loài nào
hễ vốn có tâm tánh,
thì đều nên lãnh thọ
giới pháp của chư Phật.
Chúng sinh mà lãnh thọ
giới pháp của chư Phật,
thì kẻ ấy tức thì
nhập vào cương vị Phật;
cương vị đã đồng thể
với chư Phật đại giác,
thì người ấy đích thực
là con của chư Phật.
Vậy tất cả đại chúng
cung kính mà lắng nghe,
Như Lai sẽ tụng lại
giới pháp của chư Phật.
Đức Thích Ca bổn sư mở đầu tụng lại Bồ tát giới với 4 cách. Một, khuyên Bồ tát tự mình thọ trì, lại truyền thọ cho chúng sinh. Bồ tát mới tu học là mới phát đại Bồ đề tâm học tập làm Phật. Nói Bồ tát mới tu học không có nghĩa chỉ các vị Bồ tát này mới cần thọ trì và truyền thọ Bồ tát giới, mà là nói ngay như các vị này đã phải làm như vậy, huống chi các vị trên nữa. Hai, nói muốn có giới pháp đại thừa thì phải có đức tin đại thừa. Đức tin ấy là tin mình sẽ làm Phật. Ba, vừa khuyên vừa nói yếu tố thọ trì giới pháp. Yếu tố ấy là có tâm tánh thì có thể và nên thọ trì. Tâm tánh là thể tánh của cả thân tâm và ngoại cảnh. Bốn, nói hiệu lực của giới pháp. Là chúng sinh, nhưng thọ Phật giới thì nhập Phật vị và được gọi là Phật tử. Cương vị Phật là Phật vị: cương vị của các đấng đại giác. Cương vị ấy kể từ khi mới phát đại Bồ đề tâm cho đến lúc đã thành vô thượng Bồ đề. Cắt nghĩa như vậy là nói về tiệm nhập (vào dần). Nhưng thật ra cũng có trường hợp đốn nhập (vào ngay). Văn khí chỗ này nói tuy có vẻ đốn nhập, nhưng nói để khuyến khích, chứ không phải chỉ đề cao và thừa nhận sự đốn nhập.
Đoạn 1: Qui Định Hiếu Là Giới
Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cây Bồ đề, thành tựu tuệ giác vô thượng rồi, bắt đầu qui định về Bồ tát giới, rằng sự hiếu thuận đối với cha mẹ, đại sư, chư tăng, đối với Tam bảo sự hiếu thuận phù hợp chánh pháp chí thượng, sự hiếu thuận ấy gọi là giới, cũng gọi là năng lực chế ngự đình chỉ mọi sự tội lỗi. Đức Thế Tôn liền từ miệng vàng phóng ra ánh sáng vô lượng. Lúc ấy đại chúng có đến trăm vạn ức, các vị Bồ tát, các vị Phạn thiên trong mười tám tầng trời cõi Sắc, các vị thiên nhân trong sáu tầng trời cõi Dục, các vị quốc vương của mười sáu nước cường đại, đều chắp tay, khuynh tận tâm trí, lắng nghe đức Thế Tôn tụng lại giới pháp đại thừa của hết thảy chư Phật.
Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cây Bồ đề, thành tựu tuệ giác vô thượng rồi, bắt đầu qui định về Bồ tát giới, nói như vậy là nói tắt; rõ thì phải nói thị hiện thành đạo, tuần tự thuyết pháp 10 chỗ, rồi trở lại ngồi dưới Bồ đề thọ, tụng lại Bồ tát giới, bằng cách trước hết qui định về giới ấy. Hiếu thuận đối với cha mẹ, đại sư, chư tăng, trong chữ cha mẹ gồm có chúng sinh, vì lẽ hiếu thuận ở đây là coi tất cả chúng sinh đều đã là sẽ là và đang là cha mẹ bà con của mình. Còn đại sư là 2 vị đại sư: đại sư hòa thượng (vị thầy truyền giới) và đại sư xà lê (vị thầy chỉ dạy cách nói và làm trong sự thọ giới). Không dịch đại sư hòa thượng và đại sư xà lê, chỉ dịch đại sư, là vì Bồ tát giới thì 1 vị mà làm 2 nhiệm vụ này (đến giới nhẹ 41 sẽ nói rõ hơn), nên nhiều chỗ chính văn sau đây hay nói là vị pháp sư (đặc biệt trong giới nhẹ 23). Hiếu thuận đối với cha mẹ, đại sư, chư tăng, đối với Tam bảo, sự hiếu thuận ấy căn bản phù hợp Phật pháp tối thượng. Sự hiếu thuận như vậy chính là giới pháp, có sức mạnh ngăn chận và loại bỏ tội ác. Các pháp số 18 tầng trời cõi Sắc, 6 tầng trời cõi Dục, 16 nước cường đại, đều dễ tra cứu.
Sau hết, nên nói lại từ ngữ tuệ giác vô thượng. Từ ngữ ấy chính văn là vô thượng giác. Do chữ này của chính văn ở đây mà biết không phải ngài La Thập chỉ dịch tắt A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề là vô thượng đạo, mà cũng dịch tắt là vô thượng giác. Chữ Bồ đề, ngài cũng dịch là giác, chứ không phải chỉ dịch là đạo.
Đoạn 2: Qui Định Tất Cả Bồ tát Vị Phải Tụng Bồ tát Giới Phạm võng
Đức Thế Tôn dạy các vị Bồ tát, nay Như Lai cứ nửa tháng nửa tháng đích thân tụng lại giới pháp của Phật pháp. Các người, những vị Bồ tát mới phát tâm cho đến những vị Bồ tát mười phát thú mười trưởng dưỡng mười kim cang và mười địa, cũng phải tụng y như vậy. Vì lý do ấy mà ánh sáng giới pháp từ miệng Như Lai tuôn ra. Ánh sáng ấy có lý do chứ không phải không có. Nhưng ánh sáng ấy không phải xanh vàng đỏ trắng đen, không phải vật lý tâm lý, không phải khái niệm có không, không phải tính cách nhân quả; mà là bản nguyên của chư Phật, là căn bản của Bồ tát, căn bản của chính đại chúng Phật tử các người. Vì vậy, đại chúng Phật tử các người phải thọ trì, phải đọc tụng, phải khéo học.
Bồ tát vị, như đã nói, ngoài sơ phát tâm và thập tín trước đó, chính yếu gồm có thập trú (phát thú) thập hạnh (trưởng dưỡng) thập hướng (kim cang) và thập địa. Hoa nghiêm nói thập trú thập hạnh thập hướng và thập địa, còn Phạm võng nói 30 tâm và 10 địa, ý nghĩa thì đồng, chỉ danh từ có khác (Vạn 60/305B). Tất cả Bồ tát vị này đều phải bố tát tụng Bồ tát giới, vì giới ấy căn bản là thật tướng bát nhã (biểu thị bằng ánh sáng siêu việt của Phật).
Đoạn 3: Qui Định Điều Kiện Lãnh Thọ Bồ tát Giới Phạm võng
Phật tử, lắng nghe cho kỹ. Muốn lãnh thọ giới pháp của chư Phật thì không cứ quốc vương, vương tử, tể tướng, bách quan, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, phạn thiên mười tám tầng trời cõi Sắc, thiên nhân sáu tầng trời cõi Dục, tất cả dân chúng, những kẻ hoàng môn, dâm nam dâm nữ, nô bộc tỳ thiếp, quỉ thần trong tám bộ, thần Kim cang, súc sinh, cho đến những kẻ biến hóa, hễ ai hiểu được tiếng nói của vị pháp sư truyền giới, thì đều có thể thọ giới và được giới đều có thể trở thành người thanh tịnh bậc nhất.
Điều kiện thọ Bồ tát giới chỉ là và phải hiểu rõ tiếng nói của vị thầy truyền giới. Chính văn trên đây kể ra khá nhiều kẻ mà đối với Tỳ kheo giới không được thọ, vậy mà những kẻ ấy được thọ Bồ tát giới, chứng tỏ giới pháp này cực kỳ bao dung và quảng đại. Tuy nhiên, những loài không có sắc thân như Vô sắc giới, hay những kẻ có sắc thân mà thân ấy đi đôi với tâm quá dữ, quá đần, vô tín ngưỡng (như giới nhẹ 42 nói) thì cũng không thọ được Bồ tát giới. Dầu vậy, việc thọ Bồ tát giới vẫn tương đối dễ dàng. Nhưng dễ thọ không có nghĩa Bồ tát giới không tôn, không nghiêm, không khó như Tỳ kheo giới; chỉ vì Tỳ kheo giới là bản thể Tăng bảo nên điều kiện thọ giới ấy phải tương đối khó hơn mà thôi.

Tiết 2: Nói Về Giới Điều Của Bồ tát Giới Phạm võng
Đoạn 1: Mở Đầu Nói Về Giới Nặng Của Bồ tát Giới Phạm võng
Đức Thế Tôn dạy, các Phật tử, giới pháp nặng có mười điều. Nếu thọ Bồ tát giới mà không tụng mười giới pháp nặng ấy thì không phải Bồ tát, không phải hạt giống làm Phật. Vì chính Như Lai cũng tụng như vậy, hết thảy Bồ tát thì đã học sẽ học và đang học. Và như vậy là Như Lai đã vắn tắt nói đến tướng mạo Bồ tát giới. Các người phải học, kính cẩn mà phụng trì.
Như đã nói, nói 10 giới nặng là nói về Bồ tát giới. Vì lẽ 10 giới nặng là phần căn bản của Bồ tát giới, còn 48 giới nhẹ chỉ là phần đẳng lưu của phần căn bản ấy. Tướng mạo Bồ tát giới là thọ giới ấy rồi thì phải nửa tháng 1 lần bố tát tụng giới ấy: hình thức của giới ấy, trước tiên, là điều này. 
Số 1: Không Được Tàn Sát
Phật tử nếu tự mình tàn sát, bảo người tàn sát, tàn sát bằng phương tiện, bằng cách tán dương sự tàn sát, bằng sự tán đồng khi thấy kẻ khác tàn sát, cho đến tàn sát bằng chú thuật tàn sát với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự tàn sát; nhưng, đối với bất cứ loài nào, hễ có sinh mạng thì không được cố ý tàn sát. Là Bồ tát thì phải phát khởi lòng từ bi và lòng hiếu thuận thường trú, phương tiện cứu giúp và che chở cho hết thảy mọi loài sinh vật, vậy mà đảo ngược lại, mặc sức khoái ý mà tàn sát, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
Bảo người tàn sát, chữ bảo ở đây, và những chỗ khác sau đây, tùy trường hợp và địa vị người sử dụng mà có nghĩa là hạ lịnh, chỉ thị, sai khiến, khuyên bảo, xúi dục, xúc sử, bày vẻ, huấn luyện, gợi ý, nói khích... Tàn sát bằng phương tiện, bằng cách tán dương sự tàn sát, Chính 24/1004 chép khác, theo đó thì phải dịch "tàn sát bằng cách dùng mọi phương tiện mà tán dương sự tàn sát". Nếu nói tàn sát bằng phương tiện, thì phương tiện ấy là mưu mô, khí giới, và những việc làm trước khi giết chết. Nếu nói dùng mọi phương tiện mà tán dương sự tàn sát, thì phương tiện ấy là mọi sách lược, thể thức, khen thưởng... Tàn sát bằng sự tán đồng khi thấy kẻ khác tàn sát, sự tán đồng, chính văn là tùy hỷ, nghĩa đen là mừng theo, là sự thích thú thỏa mãn như chính mình làm. Tàn sát với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự tàn sát, nguyên nhân của sự tàn sát là ý muốn tàn sát, trợ duyên của sự tàn sát là những yếu tố làm cho ý muốn tàn sát được liên tục, phương pháp của sự tàn sát là sự sử dụng các phương tiện, động tác của sự tàn sát là ý muốn tàn sát được thực hiện. Giải thích này làm mẫu để hiểu các giới sau. Hễ có sinh mạng là cơ thể tổ chức thế nào, hay trình độ tri thức ra sao đi nữa, hễ có sự sống mà giết chết sự sống ấy đi là tàn sát. Cố ý tàn sát là tàn sát một cách có ý thức, không phải chỉ do bản năng, thác loạn, lầm lẫn... Lòng từ bi và lòng hiếu thuận thường trú, thường trú ở đây vừa có nghĩa bất biến vừa có nghĩa thường trực. Ba la di, ngài La Thập dịch ý là đọa bất như ý xứ, ngài Huyền tráng dịch ý là tha thắng xứ, đều có nghĩa là sự bị thua, bị cái khác chiến thắng; cái khác ấy là tội ác, cái bị thua là giới thể.
Số 2: Không Được Trộm Cướp
Phật tử nếu tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, trộm cướp bằng phương tiện, bằng chú thuật trộm cướp với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự trộm cướp; nhưng, cho đến tài vật quỉ thần, tài vật có chủ, tài vật đạo tặc, tài vật công cọng, dẫu bằng cây kim ngọn cỏ mà thôi, cũng không được cố ý trộm cướp. Là Bồ tát thì phải phát sinh tâm hiếu thuận và tâm từ bi của Phật tánh, thường xuyên giúp người làm phước đức và được yên vui, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm như trên mà còn trộm cướp tài vật của người, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
Cho đến tài vật quỉ thần, tài vật có chủ, tài vật đạo tặc, tài vật công cọng, chính văn câu này có lắm cách giải thích; tôi dịch như vậy là theo ý Vạn 59/359B, ý này sát hơn cả. "Cho đến" là nói lược tài vật thuộc Tam bảo, tài vật của loài người, của các loài khác. Giúp người làm phước đức và được yên vui, như vậy trộm cướp là trộm cướp phước đức và yên vui của người.
Số 3: Không Được Dâm Dục
Phật tử nếu tự mình dâm dục, bảo người dâm dục; nhưng, đối với bất cứ nữ nhân nào, cho đến giống cái trong súc vật, phái nữ trong chư thiên và quỉ thần, hoặc những chỗ không phải bộ phận sinh thực, đều không được cố ý dâm dục dâm dục với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự dâm dục. Là Bồ tát thì phải sinh tâm hiếu thuận, cứu độ tất cả, bằng cách đem pháp thanh tịnh mà cho người, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm như trên mà còn nổi dậy sự dâm dục đối với mọi người, không chừa cả súc vật, đến nỗi đối với mẹ, con gái, chị, em gái, bà con nội ngoại, cũng hành dâm cả, không còn gì gọi là lòng từ bi, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
Chính văn này lấy người nam làm điển hình mà nói, nên đối tượng dâm dục là nữ, như vậy nói người nữ thì đối tượng phải đổi ra nam cả. Lại nữa, vấn đề phải nêu lên trước, ấy là giới này đối với người xuất gia thọ Bồ tát giới thì đúng. Đối với người xuất gia, nói tổng quát, tất cả động tác gây nhục cảm và nhục dục đều cấm chỉ. Nhưng đối với người tại gia thọ Bồ tát giới, thì giới này cũng không nói chỉ cấm tà dâm. Như vậy, đối với họ, chỉ còn đem ngũ giới ra mà nói họ chỉ bị cấm chỉ tà dâm, và ở Bồ tát giới thì họ nên mong ước và cố mà đi đến sự cấm chỉ dâm dục. Trong sự cấm chỉ tà dâm, dâm với người khác đã đành cấm chỉ, và không cần phải nói đến. Điều phải nói đến, là đối với bản thân và đối với vợ chồng, cũng có những sự cấm chỉ nghiêm ngặt. Đối với bản thân mà ý dâm, thủ dâm, cho dâm, thì không những là tà dâm mà còn chính là dâm dục. Đối với vợ chồng mà dâm dục không phải bộ phận (là ngoài bộ phận sinh thực) không phải nơi chỗ (là ngoài phòng ngủ) không phải thì gian (là những ngày đáng kính, nên làm phước, những lúc trai giới, bị bịnh, có thai...) không phải chừng mực (là ham dâm) đều là tà dâm cả. Luyến ái và dâm dục với 5 loại bất nam, hay đồng tính luyến ái, lại càng bị coi là tà dâm và dâm dục nặng nề.
Không phải bộ phận sinh thực, chính văn là phi đạo (không phải đường tiểu), nhưng dịch đúng hơn nữa là phi chi (không phải bộ phận sinh thực). Pháp thanh tịnh là phạm hạnh, trái lại, dâm dục là phi phạm hạnh, và danh từ này mới thật là điển ngữ của sự dâm dục. Nổi dậy sự dâm dục đối với mọi người, nếu sát chính văn hơn, và nếu đối chiếu với chính văn các giới thứ 4 và thứ 5 sau đây mà dịch, thì phải là "làm nổi dậy sự dâm dục nơi mọi người": đã không cho mọi người pháp thanh tịnh mà lại làm cho mọi người nổi thói ô nhiễm. Như vậy, làm nổi dậy sự dâm dục nơi mọi người là không những làm những cách khiêu dâm khác, mà trước hết là đem ngay thói dâm dục của mình khích động thói ấy nơi mọi người, bất kể người đó là người nào, loài nào. Mọi cách khiêu dâm khác là tình ca, tình sử, nhạc loạn, tranh ảnh, hóa chất, dược phẩm...
Số 4: Không Được Vọng Ngữ
Phật tử nếu tự mình vọng ngữ, bảo người vọng ngữ, vọng ngữ bằng phương tiện, vọng ngữ với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự vọng ngữ, cho đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, vọng ngữ cả thân thể lẫn tâm trí; nhưng Bồ tát thì phải thường tự phát sinh ngôn ngữ chân chính và kiến thức chân chính, lại phát sinh cho người hai thứ ngôn ngữ chân chính và kiến thức chân chính ấy, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm như trên mà còn làm nổi dậy nơi mọi người những thứ ngôn ngữ bất chính, kiến thức bất chính và hành động bất chính, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
Vọng ngữ ở đây bao gồm cả 4 khẩu nghiệp là vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu. Lại bao gồm những ngôn ngữ bất chính, là trong mọi sự thấy nghe hay biết của 6 giác quan, có nói không, không nói có. Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy là nói 1 sự thấy để làm tiêu biểu; đủ và tắt thì phải nói không thấy nghe hay biết mà nói có, có thấy nghe hay biết mà nói không. Ngoài ra, vọng ngữ ở đây còn bao gồm cả sự đại vọng ngữ là dối trá rằng mình hiện đã tu chứng. Cái nhân gây vọng ngữ (ngôn ngữ bất chính) là kiến thức bất chính, cái quả vọng ngữ là hành động bất chính, và mình vọng ngữ chính là một trong những nguyên nhân mạnh nhất tạo ra 3 thứ bất chính ấy nơi kẻ khác. Vọng ngữ cả thân thể lẫn tâm trí là từ ý nghĩ cho đến cử động không có gì thành thực cả.
Số 5: Không Được Buôn Rượu
Phật tử nếu tự mình buôn rượu, bảo người buôn rượu buôn rượu với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự buôn rượu; nhưng hết thảy loại rượu đều không được mua bán, vì lẽ rượu là yếu tố gây ra mọi thứ tội lỗi. Là Bồ tát thì phải phát sinh cho chúng sinh cái tuệ minh đạt, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm như trên mà còn phát sinh cho người cái tâm thác loạn, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
Buôn rượu, chính văn là cô tửu, cô nghĩa là mua bán.
Số 6: Không Được Nói Xấu Đồng Đạo
Phật tử nếu tự mình nói xấu những sự lầm lỡ của những người xuất gia tại gia thọ Bồ tát giới, hay của các vị Tỳ kheo Tỳ kheo ni, lại bảo người khác nói xấu, nói xấu với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự nói xấu; nhưng Bồ tát nghe những kẻ ác tâm trong hàng ngũ ngoại đạo và nhị thừa công kích sự phi giáo pháp và phi giới luật trong tổ chức Phật giáo, thì thường sinh tâm từ bi, giáo hóa những kẻ ác tâm ấy, làm cho họ có được đức tin đại thừa, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm như trên mà còn tự mình nói xấu những sự lầm lỡ của trong tổ chức Phật giáo, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
Nói xấu là huyên truyền, tố giác. Nói không đúng là giới vọng ngữ, không phải giới này. Giới này nói có phần đúng sự thực, nhưng sự thực ấy chỉ được cử tội đúng luật, chứ không được nói với cách nói xuyên tạc, bừa bãi, nói với dụng ý triệt hạ cá nhân, gây hậu quả tổn thương đạo pháp. Nói như vậy không phải là cử tội đúng luật. Cử tội đúng luật là nếu mình thấy, nghe hay nghi đồng đạo có lỗi, thì phải nghiêm chỉnh nói ra, nhắm mục đích bảo tồn giới đức cho đồng đạo và bảo trì mạng sống của đạo pháp. Nhưng, nói ra với hảo ý như vậy mà nói ở chỗ nào, nói với người nào, nói bằng cách nào, nói vào lúc nào, nhất nhất phải đúng luật. Không nói ra thì phạm giới nhẹ thứ 5, mà nói không đúng luật thì phạm tội nói xấu này.
Tiểu thừa công kích đại thừa, ngoại đạo công kích cả hai, sự công kích ấy dẫu vì bất đồng lý thuyết, vì tranh thủ danh lợi, hay vì bất mãn cá nhân, cũng tan biến cả khi có đức tin đại thừa, tin rằng mình sẽ làm Phật, nhất là khi đức tin ấy được giúp cho phát sinh bởi lòng từ bi chân thành. 
Số 7: Không Được Khen Mình Chê Người
Phật tử nếu tự tán dương mình mà phỉ báng người khác, lại bảo kẻ khác phỉ báng phỉ báng với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự phỉ báng; nhưng Bồ tát thì phải thay thế hết thảy chúng sinh mà chịu lấy bao nhiêu sự phỉ báng và tủi nhục, việc xấu thì xoay về nơi mình, việc tốt thì đưa cho người khác, vậy mà đảo ngược lại, tự khoe cái hay của mình, dấu cái tốt của người, làm cho họ phải chịu mọi sự phỉ báng, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
Tổn đức và giết chết chí tiến thủ của người nhất chính là sự phỉ báng. Không có cái đức nào hơn cái đức chịu nhục cho người, không có sự nâng đỡ nào hơn sự tán dương ưu điểm của họ.
Số 8: Không Được Tiếc Lẫn Tài Pháp
Phật tử nếu tự mình tiếc lẫn, bảo người tiếc lẫn, tiếc lẫn với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự tiếc lẫn; nhưng Bồ tát thì bất cứ người nghèo thiếu nào đến cầu xin, cũng phải tùy nhu cầu của họ mà cung cấp những thứ mình có, vậy mà đảo ngược lại, vì tâm địa không tốt, tâm lý hờn giận, nên đến nỗi một đồng tiền, một cây kim, một ngọn cỏ, cũng không cho ai; có ai đến cầu xin Phật pháp, đã không nói cho họ được một câu đủ nghĩa, một bài chỉnh cú, một chút bằng hạt bụi, lại còn nhục mạ họ nữa, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
"Không được tiếc lẫn tài pháp" là răn sự tiếc lẫn tài vật và tiếc lẫn Phật pháp mà còn nhục mạ những người cầu xin. Làm mất giống Phật là do sự tiếc lẫn Phật pháp, làm đứt thiện duyên đối với chúng sinh là do sự tiếc lẫn tài vật. Một câu đủ nghĩa, chính văn là nhất cú, là 1 câu có nghĩa, đủ nghĩa, như câu ai cũng có Phật tánh. Một bài chỉnh cú, chính văn là nhất kệ, chỉ cho bất cứ 1 bài 4 câu nào trong thể loại chỉnh cú của các kinh, lại chỉ cho bất cứ 4 câu 8 chữ (thành 32 chữ) nào liên tiếp với nhau, thuộc mọi thể loại trong các kinh. Một chút như hạt bụi là nói mà không đủ 1 câu hay 1 bài như trên, hoặc chỉ lộ 1 ý niệm hay phác 1 cử chỉ tốt đẹp, ý nghĩa.
Số 9: Không Được Giận Dữ Không Nguôi
Phật tử nếu tự mình giận dữ, bảo người giận dữ giận dữ với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự giận dữ; nhưng Bồ tát thì phải phát sinh cho người mọi thứ thiện căn, nhất là đức tính hòa bình, thường phát sinh nơi mình tâm từ bi và tâm hiếu thuận, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm như trên mà, đối với chúng sinh, thậm chí đối với phi chúng sinh, còn nhục mạ bằng miệng tiếng độc dữ, da thêm sự đánh đập bằng tay chân và khí cụ, lòng vẫn chưa nguôi, người ta cầu xin sám hối, tạ tội bằng ngôn ngữ khả ái, cũng vẫn giận dữ không thôi, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
"Không được giận dữ không nguôi", rõ thì phải thêm không cho sám hối. Đức tính hòa bình, chính văn là vô tránh: không tranh cãi, đấu đá. Phi chúng sinh là cảnh vật, là người và vật do biến hóa hay ảo thuật mà có, là các vị đã giải thoát. Đánh đập bằng tay chân và khí cụ, dịch sát là đánh đập bằng tay, bằng dao, gậy, nói tóm là sự hành hung.
Số 10: Không Được Phỉ Báng Tam Bảo
Phật tử nếu tự mình phỉ báng Tam bảo, bảo người phỉ báng phỉ báng với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự phỉ báng; nhưng Bồ tát nghe cái tiếng của những kẻ ngoại đạo hay những người ác tâm buông một lời phỉ báng đến Phật thì đã thấy như tim mình bị ba trăm mũi nhọn đâm vào, huống chi chính miệng mình phỉ báng; đã không phát sinh sự tín ngưỡng và lòng hiếu thuận cho mọi người mà còn đảo ngược lại, giúp thêm vào sự phỉ báng của những kẻ ác tâm, những người tà kiến, thì đó là tội Ba la di của Bồ tát.
Phật tử mà phỉ báng Tam bảo là hết lẽ rồi, nhất là sự phỉ báng bằng cách qui y Tam bảo rồi lại theo phe phái hay thủ lãnh khác. Vậy mà việc này vẫn thấy xảy ra, không những nơi tín đồ mà nơi tăng sĩ cũng có, và lỗi không phải chỉ ở đệ tử, mà ở chính vị bổn sư thiếu kiến thức, thiếu giáo huấn, thiếu cả gương mẫu. 
Đoạn 3: Kết Thúc Về 10 Giới Nặng Của Bồ tát Giới Phạm võng
Các nhân giả khéo học, như thế đó là mười giới pháp nặng của Bồ tát, các nhân giả phải học. Trong đó nhất nhất không được phạm vào bằng một hạt bụi, huống chi phạm đủ cả mười giới pháp. Ai phạm thì người đó thân hiện tại không thể phát Bồ đề tâm, phẩm vị quốc vương và luân vương đã mất, lại mất phẩm vị Tỳ kheo Tỳ kheo ni, mất các Bồ tát vị mười phát thú mười trưởng dưỡng mười kim cang và mười địa, bao nhiêu thành quả vi diệu và thường trú của Phật tánh cũng mất tất cả, sa vào ba đường dữ, đến nỗi hai kiếp ba kiếp không nghe được cái tiếng Cha Mẹ hay danh hiệu Phật Pháp Tăng. Vì lẽ ấy, nhất nhất không nên phạm. Bồ tát các người đang học bây giờ, sẽ học về sau, đã học trong quá khứ, đối với mười giới pháp nặng như vậy phải cung kính phụng trì, như Như Lai sẽ nói rộng rãi trong phẩm Tám vạn uy nghi.
Đây là kết thúc 10 giới nặng, tức là kết thúc Bồ tát giới phần căn bản. Kinh Anh lạc nói, phạm 10 giới này thì 10 trú, 10 hạnh, 10 hướng và 10 địa đều mất cả. Nên 10 giới này là căn bản của hết thảy Phật đà, Bồ tát. Hết thảy Phật đà, Bồ tát không do 10 giới này mà thu hoạch đạo quả hiền thánh là điều không thể có được. Mười giới này ở sơ trú rồi lần lên 9 trú thì dần dần rộng thêm ra, cho đến lần lên 10 hạnh, 10 hướng và 10 địa thì dần dần rộng thêm ra nữa cho đến trên cả tầm nghĩ bàn (Chính 24/1012). Rộng thêm ra là đẳng lưu ra, thành phần đẳng lưu của Bồ tát giới. Như vậy phần ấy, ở đây, nói 48 giới nhẹ chỉ là rộng thêm ra ở địa vị phàm phu mà thôi.
Chính văn nói mất phẩm vị quốc vương luân vương và phẩm vị Tỳ kheo Tỳ kheo ni, là nói phạm 10 giới nặng thì không còn tư cách để đảm nhận những nghĩa vụ cầm quyền hay làm người xuất gia. Không nghe được cái tiếng Cha Mẹ hay danh hiệu Phật Pháp Tăng: cái tiếng khêu gợi cảm tình cuối cùng là tiếng Cha hay tiếng Mẹ, cái tiếng khêu gợi lòng hướng thiện nhất là các tiếng Phật Pháp Tăng. Quả báo mà đến 2 hay 3 kiếp không được nghe các tiếng như vậy mới nặng đến tột bực. Khổ nhiều chưa nặng; cái yếu tố khêu gợi cảm tình tốt đẹp và lòng hướng thiện mà mất đi, đến nỗi những danh từ cuối cùng của các tác dụng ấy cũng không còn được nghe đến, ấy mới thật quá vô phước. Qui định "hiếu là giới", rồi nói quả báo cực nặng của sự phạm giới là không được nghe đến các tiếng Cha mẹ, lại đưa các tiếng ấy lên ngang danh hiệu Phật pháp tăng, điều này quả thật là đặc thù của Bồ tát giới Phạm võng. 
Đoạn 1: Mở Đầu Nói Về 48 Giới Nhẹ Của Bồ tát Giới Phạm võng
Đức Thế Tôn dạy các vị Bồ tát, Như Lai đã nói mười giới pháp nặng rồi, bốn mươi tám giới pháp nhẹ bây giờ Như Lai sẽ nói.
Đã nói 10 giới nặng là nói phần căn bản của Bồ tát giới Phạm võng rồi, bây giờ nói 48 giới nhẹ là nói phần đẳng lưu của phần căn bản ấy. Nói bằng cách chia ra 3 lần 10 và 2 lần 9, chỉ để dễ nhớ mà thôi.
Số 1: Không Được Bất Kính Thầy Bạn
Phật tử nếu sắp nhận địa vị quốc vương, địa vị luân vương, địa vị bách quan, thì trước đó phải lãnh thọ Bồ tát giới. Những người như vậy sẽ được quỉ thần hộ trì, được chư Phật hoan hỷ. Lãnh thọ Bồ tát giới rồi, phải sinh tâm hiếu thuận và tâm tôn kính; khi thấy các vị thượng tọa, hòa thượng, xà lê, các vị đại đức, thấy các người cùng một sở học, cùng một kiến giải, cùng một sở hành, thì hãy đứng lên, đón tiếp, thi lễ, hỏi han. Là Bồ tát mà đảo ngược lại, sinh tâm kiêu ngạo, tâm khinh lờn, tâm ngoan cố, tâm giận dữ, không chịu đứng lên, đón tiếp, thi lễ, hỏi han, mọi sự nhu cầu cũng không cung phụng đúng với chánh pháp; trong khi lẽ đáng nên hy sinh cả bản thân, địa vị, con cái, của báu và tài vật linh tinh mà hiến cúng các ngài. Nếu không làm như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Trước khi đảm nhận địa vị cầm quyền mà phải thọ giới là vì địa vị cầm quyền dễ phạm tội ác. Địa vị ấy càng cao thì tội ác càng dễ có và có nhiều, nên phải thọ giới để răn mình cho xã hội và dân chúng khỏi tai họa. Trong những sự răn mình ấy có sự lễ độ.
Trong khi lẽ đáng nên hy sinh cả bản thân, địa vị, con cái, của báu và tài sản linh tinh mà hiến cúng các ngài, câu này nên chú ý 3 điều. Một, câu này tôi chuyển văn mà dịch cho rõ như vậy. Dịch sát là "tự bán thân thể, quốc thành, con trai, con gái, 7 thứ quí báu, trăm vật, mà cung cấp các ngài". Hai, ý câu này là nói lẽ đáng như vậy, chứ không phải sự việc phải đến như vậy. Sau này, những cách nói như vậy, hay tương tự như vậy, thì cũng phải hiểu như vậy. Ba, tự bán là hy sinh. Hy sinh bản thân là đem tư tưởng và sức lực của mình mà hiến cúng. Hy sinh địa vị, chính văn là quốc thành, là vương quốc và hoàng thành, nhưng ý chính là hy sinh địa vị vua chúa quan quyền đối với quốc thành, chứ không phải hy sinh quốc thành. Ở đây chỉ có nghĩa nếu phải hy sinh địa vị mới hiến cúng được thì cũng không từ nan. Sự hy sinh con cái cũng chỉ có nghĩa như vậy. Nhưng sự hiến cúng phải đúng chánh pháp. Một trong sự đúng chánh pháp ấy là chỉ hiến cúng những thứ và những số lượng theo nhu cầu đúng chánh pháp.
Số 2: Không Được Uống Các Thứ Rượu
Phật tử nếu cố ý uống rượu, mà rượu thì dẫn ra vô số lầm lỗi; tự tay mình trao rượu cho người khác uống mà năm trăm đời kiếp cánh tay không có, huống chi chính mình tự uống. Cũng không được chỉ bảo cho mọi người uống rượu hay luyện tập cho các sinh vật khác uống, huống chi chính mình uống lấy. Nên bất cứ rượu gì cũng không được uống. Nếu cố ý tự uống hay bảo người khác uống thì phạm tội khinh cấu.
Đưa rượu cho người khác uống, quá hơn nữa, chỉ cách cho người khác uống, luyện tập cho sinh vật uống, thì tội còn nặng hơn chính mình tự uống lấy.
Số 3: Không Được Ăn Các Thứ Thịt
Phật tử nếu cố ý ăn thịt, nhưng thịt nào cũng không được ăn. Ăn thịt thì hỏng mất hạt giống Phật tánh vốn rất từ bi, mọi loài sinh vật thấy thì bỏ chạy. Vì lý do ấy, tất cả Bồ tát không được ăn dùng bất cứ thứ thịt gì của sinh vật nào. Ăn thịt thì tội lỗi vô lượng. Nếu cố ý ăn thì phạm tội khinh cấu.
Không được ăn thịt là vì ăn thịt thì mất giống Phật tánh từ bi và chúng sinh kinh sợ, ác cảm. Tất cả Bồ tát không được ăn dùng bất cứ thịt gì của sinh vật nào thì không còn phân biệt tại gia xuất gia, không còn nói đến không thấy không nghe không nghi. 
Số 4: Không Được Ăn Đồ Cay Nồng
Phật tử thì không được ăn năm loại cay nồng là tỏi, kiệu, hành, nén, hẹ. Năm loại ấy, trong bất cứ thức ăn nào cũng không được ăn. Nếu cố ý ăn thì phạm tội khinh cấu.
Đồ cay nồng là 5 thứ thường gọi là ngũ vị tân. Ăn 5 thứ này thì tụng kinh trì chú không linh nghiệm mà còn tai họa. Nhưng 5 thứ này có lắm giải thích, và rốt cuộc có người cho là tế toái, không đáng bàn kyծ Giải thích thì có 2 ý kiến đáng ghi. Một, trong 5 thứ, thứ hưng cừ ở Tàu không có, còn 4 thứ kia là tỏi, hành, hẹ, nén. Hai, 5 thứ là tỏi, kiệu, hành, nén và hẹ. Xét cách dùng chữ của ngài La Thập thì ngoài thứ đầu là đại toán (tỏi) và thứ cuối là hưng cừ (?), 3 thứ giữa toàn là thông: các thông, từ thông, lan thông. Thông là hành, và như vậy thì tất cả loại hành, và cùng loại với hành, đều cấm dùng. Hưng cừ có hay không có ở Tàu, không quan trọng, quan trọng là trong 5 thứ tất phải có kiệu như giải thích thứ hai đã kể. Kiệu không những cay nồng, mà còn tệ là sinh đàm chứ không có giá trị dược liệu. Dịch tỏi, kiệu, hành, nén và hẹ, là theo ý kiến Vạn 59/207B.
Số 5: Không Được Không Khuyên Sám Hối
Phật tử nếu thấy ai phạm tám giới, năm giới, mười giới, các giới khác, bảy tội nghịch, và những tội ác bị tám tai nạn, thấy tất cả tội phạm giới như vậy đều phải khuyên và chỉ cho họ cách thức sám hối. Là Bồ tát mà không khuyên và chỉ cho họ cách thức sám hối, lại cùng họ cư trú, cùng họ nhận đồ hiến cúng, cùng họ bố tát và đồng chúng thuyết giới mà không cử tội để khuyên và chỉ cách cho họ sám hối, thì phạm tội khinh cấu.
Sám hối, nguyên nghĩa là xin sự chịu đựng, sự tha thứ ở người mình phạm lỗi, diễn thành nghĩa tự ghét việc mình làm, nghĩa ăn năn chừa bỏ. Sám hối có cách thức mà luật đã ấn định. Nếu thấy ai phạm giới, đã không khuyên và chỉ cách sám hối, lại còn ở chung, hưởng chung đồ hiến cúng, chung nhau bố tát mà không cử tội, thì đó là nguyên nhân làm bại hoại Tam bảo. Nhưng cử tội phải đúng luật, nếu không thì phạm giới nặng thứ 6.
Số 6: Không Được Không Cầu Chánh Pháp
Phật tử nếu thấy các vị pháp sư đại thừa, các vị cùng học cùng hiểu và cùng làm về đại thừa, đến tăng phường, đến nhà cửa, thành thị, thôn ấp của mình, và dẫu ở xa cách trăm dặm ngàn dặm mà đến đi nữa, cũng tức thì đứng lên, đón rước, tiễn đưa, kính lạy, hiến cúng. Mỗi ngày hiến cúng ba lần, và giả sử tốn đến vài ba lạng vàng đi nữa, hết thảy đồ uống đồ ăn, đồ nằm, đồ ngồi, đồ mặc, thầy thuốc, thuốc, đều cung đốn cho vị pháp sư. Mọi sự nhu cầu của vị ấy cung phụng đủ cả. Mỗi ngày ba lần, phải thường thỉnh cầu vị pháp sư thuyết pháp cho. Mỗi ngày kính lạy ba lần mà vẫn không nỗi dậy trong lòng sự giận dữ, phiền bực. Vì pháp mà mất mạng đi nữa cũng vẫn cầu pháp không chán. Nếu không như vậy thì phạm tội khinh cấu.
"Không được không cầu chánh pháp", có người thêm không cúng pháp sư, nhưng xét cốt ý và kết thúc thì thấy giới này cốt răn sự không thỉnh cầu chánh pháp. Trong chính văn nói sự hiến cúng vị pháp sư, chỉ là nói giả sử, không phải nói thật sự hay nói bắt buộc. Tinh thần giới này là "vì pháp mà mất mạng" cũng không từ, huống chi từ chối vì mệt nhọc và hao tốn. Tinh thần như vậy là tinh tiến mà cầu pháp. Nhưng đó là nói người hiến cúng và cầu pháp, còn vị pháp sư thì thế nào? Pháp sư ở đây là pháp sư đại thừa. Pháp sư đại thừa ở đây, xét ra, là chỉ cho vị có thể làm 2 nhiệm vụ hòa thượng và giáo thọ trong việc truyền thọ Bồ tát giới. Vị pháp sư đại thừa này phải có tư cách đúng với Bồ tát giới, nhất là các giới 15, 16, 17, 18, 23, 30, 40 và 41 sau đây, liên quan đến tư cách ấy. Nói tối thiểu, vị pháp sư đại thừa cũng phải biết tinh tiến chỉ dạy chánh pháp và biết thiểu dục tri túc. Nhác, xa hoa, hoặc làm khó trong việc chỉ dạy chánh pháp, thì không còn là pháp sư, huống chi là pháp sư đại thừa, pháp sư đáng hiến cúng.
Tăng phường: khu vức cư trú của chư Tăng, nói hẹp lại thì Tăng phường là Tăng xá, tự viện. 
Số 7: Không Được Không Đi Nghe Pháp
Phật tử thì bất cứ chỗ nào có diễn giảng kinh luật nói về giới pháp, chỗ ấy dầu là nhà to cửa lớn mà có đặt chỗ diễn giảng, các vị Bồ tát mới học cũng phải đem kinh luật đến mà lắng nghe, tiếp nhận và thưa hỏi nơi vị pháp sư. Trong núi rừng, dưới đại thọ, nơi tăng địa, trong tăng phường, bất cứ chỗ nào có giảng thuyết giới pháp thì càng đến để lắng nghe, tiếp nhận. Nếu không đến thì phạm tội khinh cấu.
Nhà to cửa lớn là nhà cửa giàu sang của thế gian. Kinh luật nói về giới pháp, chính yếu là Bồ tát giới Phạm võng. Không có chỗ nào diễn giảng giới pháp đại thừa thì phải vận động tổ chức cho có, huống chi có chỗ như vậy mà không đến để nghe, học.
Câu "kinh luật nói về giới pháp" có bản chép hơi khác, theo đó thì phải dịch kinh luật nói về giáo pháp và giới luật. Câu "chỗ nào giảng thuyết giới pháp" cũng phải dịch theo, rằng chỗ nào giảng thuyết giáo pháp và giới luật. Nhưng tôi chọn cách chép như đã dịch, vì rõ ràng ở đây kinh luật là kinh mà nội dung nói về luật.
Số 8: Không Được Phản Đại Thừa Giới
Phật tử nếu tư tưởng phản bội kinh luật thường trú của đại thừa, cho rằng kinh luật ấy không do Như Lai tuyên thuyết, và đảo ngược lại, thọ trì những kinh luật của nhị thừa thanh văn và ngoại đạo ác kiến mà nội dung gồm có giới pháp và lý thuyết phủ nhận Phật tánh, thì phạm tội khinh cấu.
Kinh luật thường trú của đại thừa là Bồ tát giới Phạm võng mà bản nguyên là Phật tánh thường trú, nên gọi là kinh luật thường trú. Nhị thừa thanh văn, ở đây thanh văn là cỗ xe cấp hai, thứ yếu, nên gọi là nhị thừa thanh văn, chứ không phải như ở chỗ khác nhị thừa là Duyên giác và Thanh văn.
Không phản bội giới pháp đại thừa bằng cách thọ trì cấm giới và sách vở của ngoại đạo thì điều ấy khỏi phải nói đến. Điều phải nói đến là giới này bảo thọ trì cấm giới của thanh văn cũng là phản bội đại thừa giới. Cách nói này phải quyết trạch. Giới pháp thanh văn là Tỳ kheo giới. Giới pháp ấy là bản thể của Tăng bảo. Như vậy không thọ Tỳ kheo giới thì quyết định không phải là Tăng. Nhưng thọ Tỳ kheo giới mà cố chấp giới ấy mới là Phật chế và bài xích Bồ tát giới thì đó là điều mà giới thứ 8 này gọi là phản bội và cấm chỉ. Trái lại, thọ Tỳ kheo giới và thọ Bồ tát giới để thành Tỳ kheo Bồ tát tăng, thì đó là điển hình mà Bồ tát giới Phạm võng cố tạo ra. Và đó là nói hàng xuất gia. Hàng tại gia mà thọ Bồ tát giới thì đối với tam qui ngũ giới cũng phải hiểu như vậy. Không thọ tam qui ngũ giới thì nhất định không phải Phật tử tại gia. Không có cái vụ thọ Bồ tát giới mà không thọ tam qui ngũ giới. Thọ tam qui ngũ giới mà thọ Bồ tát giới thì đó là Tại gia Bồ tát mà Bồ tát giới Phạm võng cố tác thành. 
Số 9: Không Được Không Giúp Bịnh Tật
Phật tử nếu thấy bất cứ người bịnh tật nào cũng phải giúp đỡ thường xuyên y như phụng sự Phật đà. Bởi lẽ trong tám đám ruộng sinh trưởng phước đức, sự chăm sóc bịnh tật là đám ruộng tốt nhất. Nếu cha mẹ, đại sư, chư tăng, hay đệ tử bị bịnh tật, bị thiếu các bộ phận nơi cơ thể, bị hàng trăm thứ bịnh dày vò, thì mình phải chăm nuôi cho lành mạnh. Là Bồ tát mà vì tâm lý tàn nhẫn, tâm lý giận ghét, nên không chăm sóc bịnh tật cho người, đến nỗi nơi tăng phường, nơi thành thị, thôn ấp, nơi hoang dã, núi rừng, nơi đường sá, thấy bịnh nhân cũng không cứu giúp thì phạm tội khinh cấu.
Nỗi khổ con người không chi phiền hơn bịnh tật, nên sự chăm sóc bịnh tật được giới này đưa lên ngang với sự phụng sự Phật. Thấy bịnh mà bỏ đi, nhất là đối với những người mình có bổn phận mà bịnh tật không chăm sóc cho lành mạnh, thì tâm địa tàn nhẫn đó còn chi gọi là người, huống chi gọi là người thọ Bồ tát giới.
Số 10: Không Được Tàng Trữ Khí Cụ
Phật tử thì không được tàng trữ dao, gậy, cung, tên, giáo, búa, và những khí giới chiến đấu khác. Bao nhiêu dụng cụ để bẫy lưới săn bắt, sát hại sinh vật, cũng không được tàng trữ. Là Bồ tát thì đến nỗi kẻ giết cha mẹ mình, mình cũng không giết lại để báo thù, huống chi đối với người khác và vật khác. Nên không được tàng trữ khí giới và dụng cụ tàn sát. Nếu cố ý tàng trữ thì phạm tội khinh cấu.
Chữ tàng trữ, ngoài sự sắm cất còn có sự buôn bán. Tàng trữ khí giới chiến tranh và dụng cụ tàn sát, thì không những phạm tội sát sinh mà còn chính mình làm cho kẻ khác phạm vào tội ác này.
Sự trả thù không có giá trị đình chỉ tội ác. Nên phải thay vì sự trả thù bằng sự cảm hóa. Đó là giải thích vì sao không giết lại kẻ đã giết cha mẹ mình; chứ không phải không giết lại kẻ ấy là vì vô tình đối với cha mẹ.
Mười giới pháp nhẹ như vậy các người phải học, phải cung kính phụng trì, như trong sáu phẩm sau Như Lai sẽ nói rõ.
Kết thúc 10 giới nhẹ thứ nhất. Sáu phẩm sau, có bản chép khác, theo đó thì phải dịch phẩm Sáu ba la mật sau đây.
Số 11: Không Được Làm Kẻ Quốc Tặc
Phật tử thì không được vì lợi lộc hay vì ác ý, làm sứ thần cho quốc gia mà liên minh quân sự, động binh đánh nhau, tàn hại vô số sinh mạng. Là Bồ tát thì sự qua lại trong quân binh còn không được có, huống chi cố ý làm tên quốc tặc. Nếu cố ý làm thì phạm tội khinh cấu.
Làm sứ thần gây chiến tranh là làm gián điệp ngoại giao, là làm sứ thần cho chính thể gây hấn: là làm quốc tặc. Chiến tranh do những tên quốc tặc này gây ra, dầu là giữa quốc gia mình với quốc gia khác, dầu là giữa các quốc gia khác, đều là những cuộc chiến tội ác. Và như vậy, những tên quốc tặc còn là những tên giặc quốc tế. Nhưng đó là nói sứ thần gây chiến. Sứ thần vận động hòa bình thì giới này không nói đến.
Số 12: Không Được Buôn Bán Tàn Nhẫn
Phật tử nếu cố ý buôn bán lương dân, buôn bán nô bộc tỳ thiếp, buôn bán súc vật, buôn bán quan quách và những dụng cụ tẩn liệm; nhưng mọi sự buôn bán ấy chính mình còn không được làm, huống chi chỉ bảo người khác. Nếu cố ý tự làm hay chỉ bảo người khác thì phạm tội khinh cấu.
Buôn người, buôn súc vật, là sống trên sinh mạng. Buôn đồ tẩn liệm là sống trên cái chết.
Số 13: Không Được Phỉ Báng Không Thật
Phật tử nếu vì tâm địa độc ác mà, một cách không có sự thật, phỉ báng những người hiền lương, những vị thiện đức, những bậc pháp sư, đại sư hòa thượng, đại sư xà lê, quốc chúa, quí nhân, rằng phạm bảy tội nghịch, mười giới nặng... Nhưng, đối với những người nên coi như cha mẹ chú bác anh em trong hàng lục thân ấy, mình phải phát sinh tâm hiếu thuận, tâm từ bi, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm như trên, lại còn da thêm sự trái ý, sự tổn thương, khiến họ hảm vào tình trạng khổ tâm, thì phạm tội khinh cấu.
Đã coi tất cả đều là bà con, nhất là "bà con Phật pháp", mà lại làm cho họ khổ tâm, thì còn gì gọi là từ bi, gọi là hiếu thuận. "Không thật" hay không có sự thật, là không có tội lỗi mình thấy, nghe hay nghi, mà vu khống, phỉ báng là có. Nếu thật có tội lỗi mà mình thấy, nghe hay nghi thì phải cử tội đúng luật, không được dung túng, cũng không được rêu rao. 
Số 14: Không Được Cố Ý Thiêu Đốt
Phật tử nếu vì tâm địa tàn ác mà phóng lửa lớn, đốt cháy núi rừng, đồng nội; tháng tư đến tháng chín cũng phóng lửa; phóng lửa đến nỗi có thể cháy lan đến cả nhà cửa, phòng ốc, thành thị, thôn ấp, tăng phường, ruộng vườn và cây cối của người, cháy lan đến vật quỉ thần, vật công hữu. Nhưng hết thảy đều là vật có chủ, không được cố ý thiêu đốt. Nếu cố ý thiêu đốt thì phạm tội khinh cấu.
Vật quỉ thần, vật công hữu. Nhưng hết thảy đều là vật có chủ, chính văn tôi chọn để dịch là "quỉ thần quan vật. Nhất thế hữu chủ vật". Trong cách dịch này, "hết thảy đều là vật có chủ", dịch sát là"hết thảy vâểt có chủ". Nếu nói hết thảy vật có chủ thì có nghĩa còn có vật vô chủ và có thể thiêu đốt vật ấy. Nhưng giới này đã kể vật quỉ thần và vật công hữu, thì không còn nhận có vật gì là vô chủ, nên phải dịch như đã dịch. Chưa hết, chính văn câu này có những bản chép hữu chủ vật ra hữu sinh vật, theo đó thì phải dịch "những chỗ có sinh vật"; lại có những bản chép quan vật ra cung vật, hữu chủ vật ra hữu sinh vật, theo đó thì phải dịch "cung miếu và tài vật của quỉ thần; nhưng tất cả những chỗ có sinh vật". Giới này, xét kỹ thì thấy răn sự đốt phá vô trách nhiệm nhiều hơn răn sự đốt phá tàn hại sinh mạng, nên Vạn 60/87B nói chữa hữu chủ ra hữu sinh là sai. Tinh thần giới văn cấm chỉ nhất là đốt rừng. Xét đến bao nhiêu tác dụng trọng đại không thể thay thế của rừng rú mới thấy sự quan trọng của giới này.
Tháng tư đến tháng chín là những tháng ở Ấn độ thảo mộc côn trùng sinh sản nhiều hơn và bị cấm thiêu đốt nhiều hơn, chứ không phải chỉ cấm những tháng ấy mà thôi. Sau hết, giới này là cấm đốt kẻo cháy lan đến của cải và tánh mạng của người và vật; nếu cốt đốt cháy của cải và tánh mạng của người và vật thì phạm tội trộm cướp và tàn sát.
Số 15: Không Được Chỉ Dạy Sai Lệch
Phật tử thì với những người cùng là Phật tử như mình, với ngoại đạo, với kẻ ác, với bà con, với những người quen biết tốt, với ai cũng hướng dẫn cho họ thọ trì kinh luật đại thừa, hướng dẫn cho họ lý giải được nghĩa ý của kinh luật ấy, làm cho họ phát Bồ đề tâm; mười tâm phát thú, mười tâm trưởng dưỡng, mười tâm kim cang, ba mươi tâm ấy nhất nhất hướng dẫn cho họ hiểu rõ pháp dụng thứ tự. Nếu là Bồ tát mà vì tâm lý xấu xa, tâm lý hiềm ghét, một cách rất vô lý chỉ dạy cho người kinh luật của nhị thừa thanh văn và học thuyết của ngoại đạo tà kiến thì phạm tội khinh cấu.
"Không được chỉ dạy sai lệch", cũng có thể nói không được không dạy đại thừa. Đối với bất cứ ai, nhưng với sự cẩn trọng tuyệt đối, người thọ Bồ tát giới phải hướng dẫn cho họ 3 điều: học hiểu Bồ tát giới, phát Bồ đề tâm, học hiểu Bồ tát vị. Dạy khác đi là sai lệch. Pháp dụng: cái dụng trừ mê lầm chứng chân lý của các pháp phải học ở trên.
Về việc dạy Tỳ kheo giới (kinh luật của nhị thừa thanh văn) hay tại gia giới, thì tinh thần và sự việc đã nói trong khi giải thích giới nhẹ số 8.
Số 16: Không Được Nói Pháp Rối Loạn
Phật tử thì bằng một tâm nguyện tốt đẹp, trước tiên học tập uy nghi và giới pháp của kinh luật đại thừa, lý giải một cách sâu rộng nghĩa lý và ý vị của uy nghi và giới pháp ấy. Rồi thấy các vị Bồ tát mới học mà có người từ trăm dặm ngàn dặm đến cầu học kinh luật đại thừa, thì phải nói cho họ, một cách đúng như chánh pháp, về những khổ hạnh như thiêu đốt thân phần, cánh tay, ngón tay. Nếu thấy họ tỏ ý e ngại sự thiêu đốt ấy, mặc dầu đã được bảo là thiêu đốt để hiến lên chư Phật đi nữa, thì biết không phải là Bồ tát xuất gia. Bồ tát xuất gia thì dẫu đến hổ lang, sư tử và quỉ thần đang đói, cũng nên xả thịt hay tay chân của mình mà cung cấp. Sau khi nói những pháp khổ hạnh rồi, nhất nhất tuần tự nói cho họ về giới pháp chính yếu, làm cho tâm của họ mở rộng, ý của họ giải tỏa. Nếu là Bồ tát mà vì ý niệm lợi lộc nên điều đáng giải đáp không giải đáp, nói một cách rối loạn văn nghĩa của kinh luật đại thừa, không có thứ tự trước sau, nói tóm, nói một cách phỉ báng Tam bảo, thì phạm tội khinh cấu.
"Không được nói pháp rối loạn" là phải nói một cách tuần tự. Trước hết phải thử nghiệm và nung nấu tâm chí cho người học đạo bằng cách trình bày các pháp khổ hạnh, sau đó ngó được mới dạy Bồ tát giới. Uy nghi và giới pháp của kinh luật đại thừa là chi tiết và giới điều của Bồ tát giới Phạm võng. Thiêu đốt nằm trong nghĩa hy sinh, phóng xả. Thiêu đốt để hiến lên chư Phật là hiến lên chư Phật cái chí nguyện kiên cố như trong sự thiêu đốt. Nhưng đây là nói để thử. Thử coi nói đến hiến lên chư Phật mà họ có mạnh mẽ tâm chí không. Không thì phải dạy bảo từ từ, cốt sao cho họ có được tâm chí kiên cường để thọ trì Bồ tát giới. Đối với thân thể, nói tổng quát, Bồ tát giới Phạm võng bảo trọng (như giới 37 nói) hay khinh xả (như giới này nói) đều cốt để học tập Bồ tát giới.
Số 17: Không Được Ỷ Thế Ham Cầu
Phật tử nếu tự mình vì đồ ăn, vì thức uống, vì tiền của, vì quyền lợi, vì danh vọng, thân cận với quốc vương, vương tử, tể tướng, bách quan, rồi ỷ thế làm oai, yêu sách, hành hung, chiếm đoạt tiền tài sản vật của người một cách ngang ngược; nhưng mọi sự cầu lợi như vậy là ham cầu tàn ác, ham cầu quá đáng, vậy mà còn chỉ bảo kẻ khác ham cầu nữa, không còn gì là từ bi, là hiếu thuận, thì phạm tội khinh cấu.
Trong những cách ham cầu mà giới này nói còn thiếu mấy sự thường thấy, nhất là đem kinh pháp ra nói sao cho vừa lòng phụ nữ và chính quyền. Yêu sách, hành hung, dịch sát là xin, đòi, đánh, tát, lôi, kéo.
Số 18: Không Được Mù Mờ Làm Thầy
Phật tử nếu học và tụng Bồ tát giới thì ngày đêm sáu buổi nắm giữ giới ấy trong trí, lý giải ý nghĩa giới ấy, nghĩa là lý giải về tánh của Phật tánh. Là Bồ tát mà không lý giải được một câu đủ nghĩa, một bài chỉnh cú, lý do của giới pháp cũng không rành, lại nói dối trá rằng lý giải được, như vậy là tự lừa đảo mình và lừa đảo người khác. Nên, nhất nhất mù mờ, giới pháp giáo pháp nào cũng không hiểu, vậy mà làm pháp sư truyền thọ giới pháp cho kẻ khác, thì phạm tội khinh cấu.
Đầu giới này có bản chép thêm, theo đó thì phải dịch "nếu Phật tử thì phải học tập 12 thể loại khế kinh, hằng ngày 6 buổi trì tụng Bồ tát giới"... Học và tụng Bồ tát giới là học hiểu và tụng thuộc lòng giới ấy. Ngày đêm sáu buổi: ở chỗ khác là cách nói 24 giờ trên 24 giờ, nhưng ở đây là buổi đầu, buổi giữa và buổi cuối, của ngày và đêm. Nắm giữ trong trí, chính văn là trì, là lấy 1 pháp hạnh để nói 5 pháp hạnh: thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, giải nghĩa thú, như thuyết hành (hoặc: thọ trì, độc, tụng, giải thuyết, viết chép). Lý giải ý nghĩa giới ấy, nghĩa là lý giải về tánh của Phật tánh là lý giải Bồ tát giới, và sự lý giải Bồ tát giới có nghĩa lý giải về bản nguyên của giới ấy là tánh của Phật tánh. Tánh của Phật tánh là những đức tính của Phật tánh, trong đó có từ bi hiếu thuận diễn thành Bồ tát giới. Lý do của giới pháp là nguyên nhân, trường hợp, chi tiết và tương quan của mỗi giới điều. Người thọ Bồ tát giới, khoan nói để làm thầy truyền giới ấy cho ai, mà chính mình phải học cho thật hiểu và thật thuộc về giới ấy. 
Số 19: Không Được Phỉ Báng Giữ Giới
Phật tử nếu vì tâm lý xấu và ác, thấy vị Tỳ kheo giữ giới tay nâng lư hương thực tập Bồ tát hạnh, mà đâm thọc bên này bên kia, phỉ báng vu khống người thánh thiện, không từ điều xấu nào mà không dựng đứng lên, thì phạm tội khinh cấu.
"Không được phỉ báng giữ giới", rõ hơn thì phải thêm không được phỉ báng sự giữ giới bằng cách thực tập Bồ tát hạnh, nhất là sự phỉ báng ấy dùng lưỡng thiệt mà vu khống và ly gián. Tay nâng lư hương thực tập Bồ tát hạnh là nói tắt đến 2 lớp: nói tắt về sự hiến hương, lễ bái, trì niệm, và mọi sự này chỉ là nói một chút về sự thực tập Bồ tát hạnh. Thực tập Bồ tát hạnh là giữ Bồ tát giới. Ai thực tập như vậy mình cũng tùy hỷ cả, không nên đố kỵ mà tổn đức.
Số 20: Không Được Không Cứu Phóng Sinh
Phật tử thì phải đem tâm từ bi mà thực hành sự phóng sinh. Phải nghĩ như vầy: tất cả nam tính là cha ta, tất cả nữ tính là mẹ ta, ta đời đời kiếp kiếp không khi nào không sinh ra từ cha mẹ ấy. Nên sáu đường chúng sinh đều là cha mẹ của ta, ta giết mà ăn là giết mà ăn cha mẹ của mình. Lại cũng giết mà ăn chính thân cũ của mình, vì lẽ hết thảy thể cứng thể lỏng và sức nóng sức động toàn là thân thể cũ của ta. Vì nghĩ như vậy nên thường phóng sinh. Đời đời thọ sinh, đó cũng là một sự thực có tính cách bất biến, nên càng phải chỉ bảo khuyến khích mọi người phóng sinh. Khi thấy thế nhân tàn sát sinh vật thì phải tìm cách cứu hộ, giải thoát khổ nạn cho chúng. Rồi thời thường phải giáo hóa, giảng nói Bồ tát giới cho người để cứu hộ chúng sinh. Gặp ngày chết của cha mẹ anh em thì phải cung thỉnh pháp sư diễn giảng kinh luật của Bồ tát giới. Cái phước ấy giúp cho người chết được thấy chư Phật, hoặc sinh trong nhân loại hay trên chư thiên. Nếu không làm như vậy thì phạm tội khinh cấu.
"Không được không cứu phóng sinh" là phải cứu sinh (cứu thoát sinh vật) và phóng sinh (phóng thả sinh vật). Đời đời thọ sinh là chúng ta không phải chỉ có đời này mà đã có vô lượng đời kiếp, và đời kiếp nào cũng chịu sự sinh ra bởi cha mẹ và tứ đại. Do vậy mà sinh vật nào cũng đã là cha mẹ cũ của ta, và tứ đại nơi sinh vật nào cũng đã là thân cũ của ta. Tứ đại là 4 thể lực tạo ra cơ thể và vũ trụ vật lý, tức cứng, lỏng, nóng, động (kiên, thấp, noãn, động: cố thể, dịch thể, nhiệt lực, động lực); 4 thể lực này mới là tứ đại, còn đất nước lửa gió (địa thủy hỏa phong) chỉ là tứ đại tùy tăng: cứng nhiều hơn là đất, cho đến động nhiều hơn là gió, và mỗi thứ trong tứ đại tùy tăng ấy đều có đủ cả tứ đại.
Vì đời đời thọ sinh nên phải cứu sinh và phóng sinh. Cứu sinh có 2 cách: tìm cách mà cứu khi sinh vật bị bắt (cách đó, phóng sinh là một) và tìm cách khuyên người đừng bắt sinh vật nữa (cách đó, giảng Bồ tát giới là một). Cách sau cứu được cả người bắt và sinh vật bị bắt, nên gọi là cứu hộ chúng sinh.
Gặp ngày chết của cha mẹ anh em, ngày chết là ngày mới chết và ngày kỵ. Việc giảng Bồ tát giới có ích lợi lớn lao trong việc cứu hộ chúng sinh, nên gặp ngày chết mà giảng Bồ tát giới thì người chết phi sinh tịnh độ (thấy Phật) cũng sinh nhân thiên. Giảng Bồ tát giới là giảng giới ấy với những cách thức thích nghi, chứ không phải chỉ giảng giải chính văn.
Thông thường Phật tử phóng sinh chỉ vì thương sinh vật theo lời Phật dạy và muốn được phước như lời Phật dạy. Nhưng lý thuyết phóng sinh nói trong giới này còn bác bỏ cái thuyết cho sinh vật với người đều do thượng đế tạo ra, và thượng đế tạo ra sinh vật là để cho người ăn.
Mười giới pháp nhẹ như vậy các người phải học, phải cung kính phụng trì, như trong phẩm Diệt trừ tội lỗi Như Lai sẽ nói rộng rãi về mỗi một giới pháp ấy.
Kết thúc 10 giới pháp nhẹ thứ hai.
Số 21: Không Được Giận Dữ Báo Thù
Phật tử thì không được đem sự giận dữ trả lại sự giận dữ, không được đem sự đánh đập trả lại sự đánh đập, cũng không được giữ tâm niệm trả thù những kẻ tàn sát cha mẹ anh em bà con của mình hay những kẻ sát hại quốc chúa. Tàn sát sự sống để trả thù sự sống là điều không thuận với đạo hiếu. Không nuôi nô bộc tỳ thiếp mà đánh đập mắng chưởi, ngày ngày ba nghiệp bùng dậy, nhất là tội lỗi khẩu nghiệp lại càng vô lượng, huống chi cố làm đến bảy tội nghịch. Là Bồ tát xuất gia mà không có tâm từ bi, cố giữ ý niệm trả thù đến nỗi trong hàng bà con cũng quyết không tha, thì phạm tội khinh cấu.
Cái khác của người học đạo với người thế gian là ở chỗ trả thù hay cảm hóa. Câu chót hết, chính văn là "nhi xuất gia Bồ tát vô từ tâm, báo thù, nãi chí lục thân trung cố báo giả, phạm khinh cấu tội". Chính văn này có một cách hiểu mà theo đó thì phải dịch "nếu Bồ tát xuất gia mà không có từ tâm, cố ý báo thù, cho đến vì lục thân mà cố ý báo thù, thì phạm tội khinh cấu". Hiểu như vậy là cố ép chính văn cho đúng với đoạn trên đã nói không được trả thù kẻ giết cha mẹ thân nhân. Nhưng chính văn này rõ ràng muốn nói, là Bồ tát, lại là Bồ tát xuất gia, mà quyết tâm trả thù (bất cứ trả thù cho ai) đến nỗi không những đối với người ngoài mà đối với bà con cũng không tha, thì phạm giới này. Về chữ Bồ tát xuất gia, có bản chép và có người nói không có, nhưng tìm xét thì có đúng hơn (Chính 62/202). Có điều nói như vậy không có nghĩa giới này chỉ răn cấm người xuất gia, mà là có nghĩa răn cấm người xuất gia hơn. 
Số 22: Không Được Kiêu Ngạo Không Học
Phật tử nếu mới xuất gia, chưa lý giải gì, mà tự thị thông minh, tự thị cao sang, tự thị tuổi tác, tự thị dòng họ, tự thị giai cấp, kiến thức to lớn, phước đức to lớn, giàu có to lớn, đủ cả thất bảo, ỷ thị những thứ ấy mà kiêu ngạo, không chịu học hỏi kinh luật với các vị pháp sư đã học hỏi trước mình. Các vị pháp sư ấy có thể có người dòng họ nhỏ, tuổi tác nhỏ, giai cấp nhỏ, nghèo nàn, thấp thỏi, các giác quan không hoàn chỉnh, nhưng thật là người có đức, lý giải thấu đáo hết thảy kinh luật. Nếu các vị Bồ tát mới học mà dòm ngó dòng họ và giai cấp, không chịu đến học hỏi đệ nhất nghĩa nơi vị pháp sư ấy, thì phạm tội khinh cấu.
Đệ nhất nghĩa là chân lý tuyệt đối, tức Phật tánh thường trú. Nếu kiêu ngạo mà không thỉnh cầu học hỏi giáo pháp và giới pháp Phật tánh, thì thế là để sự kiêu ngạo vùi lấp cả một kiếp làm người. 
Số 23: Không Được Không Truyền Kinh Giới
Phật tử nếu, sau khi Như Lai nhập niết bàn rồi, muốn đem tâm nguyện tốt đẹp lãnh thọ Bồ tát giới mà bằng cách tự nguyện lãnh thọ giới ấy trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, thì phải bảy ngày sám hối trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, hễ thấy được tướng tốt thì thọ giới là được giới. Nếu chưa thấy được tướng tốt, thì phải hai lần hay ba lần bảy ngày, cho đến một năm, phải sám hối cho thấy được tướng tốt. Thấy được tướng tốt rồi thì có thể thọ giới trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát. Nếu không thấy được tướng tốt, thì dẫu thọ giới trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, cũng không thể gọi là được giới. Nếu lãnh thọ Bồ tát giới bằng cách hiện diện đối trước vị pháp sư đã thọ giới ấy trước mình, thì không cần phải thấy được tướng tốt, tại sao, vì vị pháp sư ấy đã do các vị pháp sư trước nữa truyền giới cho nhau, và nay truyền lại cho mình, nên không bắt buộc phải thấy tướng tốt. Và thọ giới trước vị pháp sư như vậy thì được giới liền, được bởi cái tâm cùng cực cẩn trọng phát sinh trong lúc ấy. Nếu trong vòng ngàn dặm, không ai có thể làm vị pháp sư truyền thọ Bồ tát giới, thì người muốn thọ giới ấy có thể tự nguyện mà lãnh thọ trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, nhưng với điều kiện phải sám hối thấy được tướng tốt. Nếu là vị pháp sư mà tự thị sự lý giải của mình đối với kinh luật và giới pháp đại thừa, chỉ làm bạn với quốc vương, vương tử và bách quan, còn các vị Bồ tát mới học đến xin hỏi hoặc nghĩa ý của khế kinh, hoặc nghĩa ý của giới luật, vị pháp sư ấy vì tâm lý khinh miệt, tâm lý xấu xa, tâm lý kiêu ngạo, không nhất nhất giải đáp một cách tốt đẹp những câu của họ thưa hỏi, thì phạm tội khinh cấu.
Không truyền kinh giới là không truyền dạy và truyền thọ cho hậu học về khế kinh và giới luật, chủ yếu là Bồ tát giới Phạm võng; và như vậy là chính mình làm cho giống Phật đứt đoạn. Giới văn công kích sự xu phụ quyền quí mà khinh miệt hậu học, không chu toàn nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ ấy, như vừa nói, là truyền dạy và truyền thọ Bồ tát giới. Phần người thọ giới, nếu trong vòng ngàn dặm không có vị thầy xứng đáng thì có thể tự nguyện thọ Bồ tát giới trước tượng Phật và cũng có thể được giới, với điều kiện trước đó phải sám hối cho đến lúc thấy được tướng tốt mà giới 41 sẽ nói. Còn nếu thọ Bồ tát giới với thầy truyền giới thì phải là vị thầy đã do các vị thầy trước truyền lần, và nay làm cả 2 nhiệm vụ đại sư Hòa thượng và đại sư Xà lê mà truyền giới cho mình, nhưng mình chỉ được giới nếu có cái tâm cùng cực cẩn trọng trong lúc thọ giới (và tiếp sau đó trong lúc trì giới). Vị thầy tự nguyện thọ giới dĩ nhiên không được truyền giới, nhưng vị thầy do các vị thầy trước truyền lần cũng chỉ được truyền giới với điều kiện ít nhất là biết quí trọng tương lai của Phật pháp mà không xu phụ quyền quí, là lãnh thọ và truyền trao đúng với sự qui định của Bồ tát giới Phạm võng.
Kinh Anh lạc nói thọ Bồ tát giới có 3: đối trước Phật đà Bồ tát mà thọ là thượng phẩm, đối trước pháp sư thọ trước mà thọ là trung phẩm, nếu trong vòng ngàn dặm không có vị pháp sư ấy nên đối trước tượng Phật đà và Bồ tát mà thọ là hạ phẩm (Chính 24/1020). Vì sao thọ giới trước vị pháp sư hơn thọ giới trước tượng Phật thì xét thấy (a) trong hình thức, thọ giới với vị pháp sư thì có vị thầy không hiện diện là Phật, có vị thầy hiện diện là pháp sư, (b) trong sự việc, thọ giới với vị pháp sư thì trước, trong và sau khi thọ giới, vị pháp sư thường dạy bảo, khuyến khích, nhất là kiểm tra.
Số 24: Không Được Học Các Sách Khác
Phật tử nếu có chánh pháp đại thừa trong kinh luật Như Lai đã dạy, chánh pháp đủ cả chánh kiến, chánh tánh, chánh pháp thân, mà không nỗ lực học hỏi tu tập, lại bỏ chánh pháp quí báu như thất bảo ấy mà học tập sách vở phủ nhận Phật tánh của nhị thừa, ngoại đạo và thế tục, như các bộ a tỳ đàm, các luận thuyết hỗn tạp, những thi văn truyện ký, thì thế là làm mất Phật tánh, làm cản đạo nghiệp, chứ không phải thực hành Bồ tát đạo. Nếu cố ý học tập thì phạm tội khinh cấu.
Chánh pháp đại thừa trong kinh luật Như Lai đã dạy là trong kinh luật Phật dạy có kinh luật đại thừa. Các kinh luật Phật dạy khác cũng có chánh pháp đại thừa ít nhiều trong đó. Chánh pháp đại thừa là chánh kiến: kiến giải về Phật tánh, là chánh tánh: thực hành đức tánh của Phật tánh, và là chánh pháp thân: thành tựu Phật tánh (thành tựu pháp thân: thực hiện bản thể đầy đủ đức tánh). Ba điều này bao gồm tất cả nội dung về lý, hạnh và quả của đại thừa. So với sách vở của tiểu thừa, ngoại đạo, và thế tục, thì đại thừa như vậy quí như thất bảo, nhưng thông đạt đại thừa rồi, muốn biết những sách vở ấy để tiện việc hóa độ, thì lại là việc khác. Sách vở phủ nhận Phật tánh, chính văn là tà kiến, chữ ấy ở đây có nghĩa là những kiến thức phủ nhận Phật tánh, không có căn bản Phật tánh ấy. Tà kiến như vậy bao gồm cả nhị thừa, ngoại đạo và thế tục. Nhưng nhị thừa ở đây, là các bộ a tỳ đàm, nói như vậy là chỉ nói thời kỳ bộ phái, không nói thời kỳ nguyên thỉ, lại càng không nói về giới luật. Do vậy mà người xuất gia thọ Bồ tát giới càng phải lãnh thọ, học hỏi và tuân giữ cho nghiêm về Tỳ kheo giới. Còn ngoại đạo ở đây là các chủ thuyết phức tạp và hỗn tạp của hết thảy học phái cùng tôn giáo khác. Thế tục là những thi văn truyện ký của thế tục, nhưng có người chú giải ký là toán học, bao gồm cả toán pháp, lý số và thiên văn, có người còn dẫn luận Du dà mà chứng minh cho chú giải ấy. 
Số 25: Không Được Lạm Dụng Gây Rối
Phật tử nếu, khi Như Lai nhập niết bàn rồi, làm chủ sự thuyết pháp, làm chủ sự hành đạo, làm chủ nơi tăng phường, làm chủ sự giáo hóa, làm chủ sự tọa thiền, làm chủ sự đi lại, thì phải phát sinh tâm từ bi, khéo hòa giải mọi sự mâu thuẫn, khéo hộ vệ vật của Tam bảo, đừng sử dụng vô độ như là của riêng. Nếu trái lại, làm cho Tăng chúng rối loạn vì sự tranh chấp, mặc sức sử dụng của Tam bảo, thì phạm tội khinh cấu.
Các chức vị làm chủ trong giới văn này, tùy qui chế và định nghĩa mà xưa nay gọi bằng những tên hoặc đồng hoặc khác, như làm chủ sự thuyết pháp gọi là pháp sư, cho đến làm chủ sự đi lại gọi là tri khách. Nhưng làm pháp sư hay làm trú trì, bất cứ chức vị gì mà nắm trọn phần hay nắm một phần quyền hành trong Tăng chúng, thì phần tự lợi không được lạm dụng, phần lợi tha phải khéo điều giải mâu thuẫn. Nếu lạm dụng và gây rối thì chính mình là tên giặc phá hoại Tăng chúng.
Số 26: Không Được Không Đãi Khách Tăng
Phật tử nếu đã ở trước trong tăng phường, sau thấy các vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo Bồ tát, đến nơi tăng phường, đến nơi nhà cửa, thành thị hay thôn ấp của mình, đến nơi nhà của quốc vương thiết lập, đến nơi chỗ đang kiết hạ an cư, hay nơi chỗ đang thiết lập đại hội cầu phước, thì mình là chư tăng ở trước, phải đón rước, tiễn đưa, và hiến cúng ẩm thực; phòng ở, đồ nằm, giường giây hay giường cây, mọi sự đều cung cấp. Nếu không có sẵn, thì dẫu phải bán mình, bán cả con cái, cũng gắng mà cung phụng những thứ các vị ấy cần dùng. Rồi nếu có thí chủ đến thỉnh chư tăng, thì các vị khách tăng ấy cũng có đồng phần, nên vị chủ tăng phường phải y theo thứ tự mà mời các vị khách tăng ấy thọ thỉnh. Nếu chư tăng ở trước chỉ thọ thỉnh riêng, không mời các vị khách tăng, thì vị chủ tăng phường tội lỗi vô lượng, không khác gì loài vật, không phải sa môn, không phải dòng giống họ Thích. Nếu cố ý làm như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Giới này cốt nói cho người xuất gia thọ Bồ tát giới, nhất là các vị tri sự hay trú trì mà trong giới văn gọi là vị chủ tăng xá. Nhưng trong chi tiết lại có vài chỗ nói chung hoặc nói riêng cho cả người tại gia thọ Bồ tát giới. Nhà cửa, thành thị hay thôn ấp của mình là nói chung cho cả xuất gia tại gia mà nói cho tại gia nhiều hơn. Nhà của quốc vương thiết lập là thời xưa ở Ấn, vua chúa hay làm những nhà cửa nghỉ chân cho tu sĩ, du khách. Phòng ở, đồ nằm, giường cây hay giường giây, toàn là nói về đồ nằm, nhưng sự hiến cúng thường có 4, là đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm và dược phẩm. Bán mình, bán cả con cái, có bản chép thêm cắt thịt thân mình mà bán, nhưng nhiều bản không có, và không có thì đúng hơn. Câu này nói riêng cho người tại gia thọ Bồ tát giới, và đó là nói cái tình đãi sư tăng và đồng đạo cực kỳ chí thiết, nên nói như vậy có nghĩa giả sử nhiều hơn. Tuy nhiên, cách nói ấy cũng nên hiểu. Nói bán mình và bán con như kiểu đi ở thì xưa và nay hay có. Nói bán mình và bán con là bán sức lao động chân tay và trí thức thì ở đâu và thời nào cũng có và có dưới nhiều hình thức. Nhưng nói bán thịt mình, nếu thật giới này có nói, thì chỉ là giả sử, trừ ra bán thịt có nghĩa như bán mình. Y theo thứ tự mà mời các vị khách tăng ấy thọ thỉnh, cách thức này quan trọng, sẽ được giải thích trong giới 28 sau đây. Nếu khách tăng bị kỳ thị, không được tiếp đãi chu tất, không được lợi hòa đồng quân đúng luật, thì sự kỳ thị ấy bị Phật kết án gần như chưa từng thấy. 
Số 27: Không Được Thọ Thỉnh Riêng Biệt
Phật tử thì trường hợp nào cũng không được thọ thỉnh riêng biệt, thu đồ hiến cúng về cả nơi mình. Đồ hiến cúng là thuộc về chư tăng mười phương. Nếu thọ thỉnh riêng biệt thì ấy là lấy vật của chư tăng mười phương thu về nơi mình; lại xâm phạm đến vật của Phật đà, thánh giả, đại sư, chư tăng, cha mẹ và bịnh nhân trong tám ruộng phước, vì lẽ mình chỉ dùng cho mình mà thôi, nên phạm tội khinh cấu.
Đồ hiến cúng là thuộc về chư tăng mười phương, chư tăng mười phương là các vị Tỳ kheo và Tỳ kheo thọ Bồ tát giới trong mọi phương hướng, bất cứ ở đâu. Đồ hiến cúng, theo luật, là của chung chư tăng như vậy. Nói nôm na, theo luật, không có chùa riêng và đồ riêng của chư tăng ở trước trong mỗi chùa, mà tất cả chùa chiền, và đồ vật được hiến cúng đã lâu hay mới có, trong đó có sự trai tăng, đều là của chư tăng 10 phương mà chư tăng ở trước chỉ là một bộ phận, một số đại diện. Tám ruộng phước là Phật đà, thánh giả (Bồ tát, Duyên giác, La hán), đại sư Hòa thượng (vị truyền giới), đại sư Xà lê (vị dạy cách thọ giới), chư tăng, cha, mẹ và bịnh nhân; 8 bậc và người này là những đám ruộng tốt mọc lên và nuôi lớn phước đức cho người, nên gọi là 8 ruộng phước. Đồ hiến cúng, theo luật, cũng là của chung 8 ruộng phước như vậy. Nếu không thọ thỉnh theo thứ tự như giới 28 sau đây nói, mà thọ thỉnh riêng biệt, lại sử dụng một mình, thì thế là chiếm đoạt 2 lớp: chiếm đoạt của chư tăng 10 phương và của 8 ruộng phước. Thọ thỉnh riêng biệt, nói nôm na, là nhận lời mời trai tăng riêng, nhận đồ hiến cúng riêng, chứ không lợi hòa đồng quân cho chư tăng, nhất là cho khách tăng. Thu đồ hiến cúng về nơi mình, mình chỉ dùng riêng cho mình, những chữ mình trong 2 câu này chỉ cho vị trú trì hay tri sự, lại chỉ cho chư tăng ở trước trong mỗi ngôi chùa. Nếu người thỉnh tăng mà thỉnh riêng, nếu tăng thọ thỉnh mà thọ riêng, thì không được gọi là thỉnh tăng hiến cúng và không được cái phước ấy. Hãy coi kỹ giới 28 dưới đây.
Số 28: Không Được Thỉnh Tăng Riêng Biệt
Phật tử thì dầu xuất gia thọ Bồ tát giới, dầu tại gia thọ Bồ tát giới, hay vị trí thí chủ nào, khi muốn thỉnh chư tăng để hiến cúng cầu nguyện, cũng phải đến tăng phường, hỏi vị tri sự mà bạch rằng muốn theo thứ tự thỉnh chư tăng để hiến cúng cầu nguyện. Như vậy là thỉnh được Hiền thánh tăng mười phương. Nếu thỉnh riêng biệt như thế nhân, thì thỉnh năm trăm vị tăng La hán và Bồ tát, cũng không bằng thỉnh một vị tăng phàm phu trong thứ tự của chư tăng. Thỉnh riêng là nề nếp của ngoại đạo, bảy đức Phật không có qui chế thỉnh riêng. Sự ấy không thuận với đạo hiếu. Nếu cố ý thỉnh riêng thì phạm tội khinh cấu.
Thỉnh tăng riêng biệt, nói nôm na là mời các Thầy ăn riêng, cho riêng; ý riêng thích ai thì mời thì cho người ấy. Như vậy không được gọi là thỉnh tăng và không có cái phước thỉnh tăng. Do đó, giới 27 trên đã cấm tăng thọ thỉnh riêng biệt, giới 28 này lại cấm người thỉnh tăng riêng biệt, mà thỉnh và thọ thỉnh đều phải theo thứ tự của chư tăng. Thỉnh và thọ thỉnh theo thứ tự của chư tăng là thế này. Chư tăng cùng ở 1 trú xứ, vốn phải phân thứ tự theo năm thọ Tỳ kheo giới mà giới 38 sẽ nói. Có thể phân thứ tự ấy bằng 1 bảng danh sách. Và thứ tự phân theo năm thọ giới như vậy gọi là thứ tự của chư tăng. Các vị khách tăng cũng vậy, ngay khi mới đến, sẽ ở lại mau hay lâu, hay vô hạn định, vị trú trì hay tri sự phải hỏi năm thọ Tỳ kheo giới của các vị ấy mà đưa vào thứ tự của chư tăng trong trú xứ. Rồi ai muốn thỉnh thì hãy đến trú xứ ấy mà bạch với vị trú trì hay tri sự, rằng xin thỉnh tăng theo thứ tự, lại phải bạch rõ thỉnh cúng được mấy vị. Nếu người thỉnh không biết cách thỉnh tăng theo thứ tự thì vị trú trì hay tri sự phải hỏi và phải chỉ cho họ. Đến lượt chư tăng thọ thỉnh theo thứ tự là vị trú trì hay tri sự bạch chư tăng rõ ý nguyện của người thỉnh, và chư tăng cùng thọ thỉnh theo ý nguyện ấy. Vị trú trì hay tri sự lại coi cái số mà người thỉnh có thể cúng, nếu đủ cả chư tăng thì bạch chư tăng đi dự cả, nếu không đủ thì vị trú trì hay tri sự theo thứ tự của chư tăng mà cử đi. Cử số này cho lần này rồi cử đến số khác cho lần khác, khi chư tăng ai cũng đi rồi thì bắt đầu trở lại mà cử. Như vậy, không kể thỉnh và thọ thỉnh là bao nhiêu vị, mà ý nguyện người thỉnh là thỉnh Hiền thánh tăng mười phương, còn tăng thọ thỉnh thì một hay mấy vị, và là phàm phu tăng đi nữa, cũng là thay mặt Hiền thánh tăng mười phương mà thọ thỉnh. Do đó mà người thỉnh dầu chỉ thỉnh cúng được một vị, và là một vị phàm phu tăng mà thôi, cũng vẫn gọi là thỉnh tăng, và vẫn được cái phước thỉnh tăng ấy. Nếu người thỉnh tăng cũng như tăng thọ thỉnh mà không theo sự thỉnh và thọ thỉnh thứ tự, lại thỉnh và thọ thỉnh riêng biệt, thì đó là ngoại đạo, không phải qui chế của Phật, và người thỉnh dầu thỉnh hàng trăm vị, và toàn là thánh tăng cả, cũng vẫn không được gọi là thỉnh tăng, và không có cái phước của sự thỉnh tăng. Tuy nhiên, trên đây là nói thỉnh và thọ thỉnh trong sự hiến cúng cầu nguyện, ngoài sự đó thì không phải là điều mà giới này nói đến.
Câu phải đến tăng phường, hỏi vị tri sự mà bạch rằng muốn theo thứ tự thỉnh chư tăng để hiến cúng cầu nguyện, như vậy là thỉnh được Hiền thánh tăng mười phương, có bản chép thêm mấy chữ mà theo đó thì phải chuyển văn nhiều hơn một chút mới dịch rõ được: Phải đến tăng phường, hỏi vị tri sự mà bạch rằng muốn thỉnh chư tăng để hiến cúng cầu nguyện; vị tri sự trả lời hãy thỉnh theo thứ tự. Người ấy y lời mà thỉnh theo thứ tự. Như vậy là thỉnh được Hiền thánh tăng mười phương. Cách chép này kém, nhưng rõ hơn được chút nữa cho giới này, lại làm cho giới này dạy được cả người thí chủ và vị tri sự.
Số 29: Không Được Sống Bằng Tà Mạng
Phật tử nếu vì độc ác và vụ lợi mà buôn bán dâm nam dâm nữ, tự tay làm đồ ăn, tự xay tự giã, coi tướng nam nữ, đoán mộng tốt xấu, đoán thai trai gái, làm các chú thuật, xảo thuật, luyện tập chim săn thú săn như luyện chim ưng, pha chế thuốc độc bằng trăm thứ ngàn thứ độc hợp lại, độc rắn, độc vàng bạc sống, độc sâu cổ, không còn gì là từ bi, hiếu thuận. Nếu cố ý làm thì phạm tội khinh cấu.
Tà mạng, là sống bằng những cách sống thiếu uy nghi, thiếu tư cách, thiếu từ tâm. Người xuất gia thì "hoằng pháp thị gia vụ, lợi sinh vi sự nghiệp" nên phải sống bằng sự giúp đỡ của tín đồ, còn người tại gia thì "như lý cầu tài" kiếm của một cách hợp lý mà sống, ngoài ra đều là tà mạng cả. Tự tay làm đồ ăn, tự xay tự giã là nói sự thiếu uy nghi của vị Tỳ kheo. Độc sâu cổ là bắt cả trăm thứ sâu bỏ vào 1 cái hộp cho chúng ăn nhau, con nào còn sống gọi là sâu cổ. Đem phân sâu cổ ấy tán ra mà đầu độc thì phát điên cuồng hay bị cổ trướng. Lấy phân cả trăm thứ sâu nuôi chung mà đầu độc, cũng gọi là độc sâu cổ. 
Số 30: Không Được Bất Kính Hảo Thời
Phật tử nếu vì tâm lý bất lương, chính mình phỉ báng Tam bảo bằng cách tỏ ra thiết cốt với Tam bảo, nhưng, mở miệng ra là nói về không mà việc làm thì toàn ở trong có: kinh lý cho thế nhân, vì thế nhân mà mai mối nam nữ, kết hợp sắc dục, tạo ra đủ thứ hệ lụy; sáu ngày chay trong mỗi tháng, hay ba tháng chay trong mỗi năm, cũng sát sinh, trộm cướp, phá trai, phạm giới, thì phạm tội khinh cấu.
Hảo thời là những thì gian quí báu, cần phải da tăng sự cẩn trọng, như những ngày lục trai hàng tháng (8, 14, 15, 23, 29 và 30) và ba tháng trường trai hàng năm (giêng, năm và chín), hay các ngày kỷ niệm Phật đà, Bồ tát. Những thì gian quí báu như vậy mà phá giới phạm trai, thì đã phạm những tội phá giới phạm trai mà còn phạm giới này nữa. Giới này răn sự xảo trá đối với Tam bảo, răn sự nói và làm nghịch nhau, sự kinh lý cho thế nhân, và như vậy là răn tà nghiệp, răn thêm tà mạng, nhất là răn cấm đích thân phỉ báng Tam bảo bằng những sự ấy, nên các bản chú thích đặt tên khác nhau theo những sự răn như vậy. Kinh lý cho thế nhân, ngoài sự mai mối nam nữ còn có lắm việc, như kinh tài, môi giới chính trị...
Mười giới pháp nhẹ như vậy, các người phải học, phải cung kính phụng trì, như trong phẩm Thiết chế giới luật Như Lai đã giải thích đầy đủ.
Kết thúc 10 giới nhẹ thứ ba.
Số 31: Không Được Không Cứu Không Chuộc
Phật tử nếu, sau khi Như Lai nhập niết bàn, trong thời kỳ dữ dội, thấy ngoại đạo và những kẻ tàn ác, những kẻ đạo tặc, chiếm đoạt và đem bán hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, những hình tượng mà mình tôn thờ như cha mẹ, bán kinh bán luật, bán các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, bán Bồ tát mới phát Bồ đề tâm, cho quan lại sai sử hay cho kẻ khác làm nô bộc tỳ thiếp Nếu là Bồ tát thì thấy những sự tình ấy phải phát sinh tâm từ bi, tìm mọi phương cách mà cứu hộ, đi khắp nơi khuyến hóa mọi người để kiếm tiền của mà chuộc hình tượng của Phật đà và Bồ tát, chuộc các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni và Bồ tát mới phát tâm, chuộc kinh chuộc luật. Nếu không chuộc như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Giới văn này nói đã quá rõ về tình trạng đau buồn của đạo pháp, đã xảy ra và chắc chắn còn xảy ra. Bổn phận của người thọ Bồ tát giới là phải duy trì ngôi Trú trì tam bảo, nên tự mình vô lực thì phải cực lực khuyến hóa mọi người, cùng nhau cứu chuộc về cho đạo pháp những vật và những người đã bị bức đoạt một cách bất lương và bẩn thỉu. Bán các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni và Bồ tát mới phát tâm, cho quan lại sai sử hay cho kẻ khác làm nô bộc tỳ thiếp, câu này ngày xưa có thể là nghĩa đen cả, nhưng ngày nay thì sự thể biến ảo vô lường, ý nghĩa đen đúa hơn mà danh từ lại rất bóng nhoáng, và chẳng phải chỉ bán Phật tử, lại cũng chẳng phải chỉ bán cho kẻ khác làm lao công mà thôi. Hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, những hình tượng mà mình tôn thờ như cha mẹ, Vạn 60/57A giải thích là hình tượng của Phật đà, của Bồ tát và của cha mẹ, nhưng xét ra không đúng với câu kết của giới này. Tuy nhiên, nói như vậy không phải bảo Phật tử đừng quan tâm đến cha mẹ, thân nhân và ân nhân.
Số 32: Không Được Tổn Hại Chúng Sinh
Phật tử thì không được cất chứa buôn bán dao gậy cung tên, buôn bán bình thường mà dùng dụng cụ cân lường nhẹ và nhỏ, dựa vào uy thế của quan quyền mà chiếm đoạt tài vật của người, giam cầm và phá hoại sự thành công của người bằng tâm địa độc hại, nuôi lớn những loài mèo chồn heo chó. Nếu cố ý làm những việc như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Tổn hại chúng sinh bằng cách với người thì buôn bán bất lương, ỷ thế cướp của, giam cầm và phá hoại sự thành công; với vật thì nuôi để ăn để bán, nuôi những vật săn bắt tàn hại vật khác. Đến như buôn bán vũ khí thì khỏi nói.
Số 33: Không Được Tà Dâm Làm Quấy
Phật tử thì không được bằng tâm lý đen tối mà xem sự đấu sức nam nữ, của quân trận, của tướng sĩ, của giặc cướp... Không được xem nghe ca vũ, không được cờ bạc, không được bói toán, không được làm liên lạc cho đạo tặc. Những việc như vậy nhất nhất không được làm. Nếu cố ý làm thì phạm tội khinh cấu.
Ngoại trừ đam mê thanh sắc, cờ bạc, du hý, là các thứ mới răn ở đây, ở đây vẫn còn răn thêm về tà mạng và tà nghiệp (bói toán và làm việc cho giặc).
Xem nghe ca vũ là dịch tắt cho rõ và đủ hơn. Dịch sát là nghe thổi ốc, đánh trống, đánh mõ sừng (chính văn là giác, có người nói thổi còi sừng), đàn cầm, đàn sắt, đàn tranh, thổi sáo (có bản tiếp đây chép thêm thổi sanh), đàn không hầu, nam nữ ca hát, ngâm vịnh (chính văn là kiếu, có sự giải thích đó là huân, một nhạc khí bằng đất, hay đi đôi với trì, một nhạc khí khác bằng tre), và mọi thứ tiếng diễn tấu các nhạc khí khác.
Cờ bạc cũng là dịch tắt cho rõ và đủ. Dịch sát là đánh sư bồ (cờ ngũ mộc), cờ vây, cờ tướng (ba la tắc hý), cờ đạn (vật tròn chọi vào lỗ hay chọi vào nhau), lục bác, phách cúc (hay cầu, là đánh bóng, đá bóng), ném đá, gieo hồ, và khiên đạo bát đạo hành thành (còn gọi là bát đạo hành thành, chỉ có ở Ấn).
Bói toán, chính văn là bốc thệ (bốc: bói bằng mai rùa, thệ: bói bằng cỏ thi), nhưng ở đây tôi dùng chữ này để dịch tắt cho đủ và rõ về mọi sự bói toán. Dịch sát là móng kính (luyện thuốc bôi vào móng tay hay ngón tay cho bóng như kính, làm hiện lên điềm tốt xấu, bôi trên kính trên vách cũng vậy, nên Tàu gọi là phép bói sáng ngời), cỏ thi (như bói dịch), nhánh dương (bói bằng nhánh dương liễu), bát bồn (bát phải viết trên chữ hữu là bạn, dưới chữ mãnh là đồ sành, bát bồn là bói nước đựng trong chén bát), đầu lâu (lấy đầu lâu luyện cho linh rồi nghe mách thầm bên tai về sự tốt xấu). Trong loại bói toán này, kinh Niết bàn còn cấm coi tướng tay, chân, mặt, mắt.
Các loại ca vũ, cờ bạc và bói toán trên đây, nếu dịch sát thì Ấn khác Tàu khác, xưa khác nay khác, xưa nay ở nước ta với các nước lại càng khác hơn nữa, nên dịch sát và cắt nghĩa chỉ như nói chuyện đồ cổ của một địa phương, chỉ làm cho khó hiểu, và loảng đi về ca vũ, cờ bạc và bói toán hiện hành tại mỗi xứ mà chủ ý giới này răn cấm.
Số 34: Không Được Rời Bồ đề Tâm
Phật tử thì phải nghiêm trì giới pháp, bằng cách trong mọi cử động đi đứng nằm ngồi và ngày đêm sáu buổi đều phải đọc tụng giới pháp ấy, và giữ với lòng bền chắc như ngọc kim cương, giữ như giữ chiếc phao nổi khi bơi qua biển cả, giữ với quyết chí của vị Tỳ kheo bị buộc bằng cỏ, vĩnh viễn phát sinh nơi mình đức tin cao đẹp của đại thừa, là tự biết chắc mình là Phật sẽ thành như chư Phật là Phật đã thành, tâm Bồ đề không một thoáng nào rời khỏi tâm trí. Như vậy mà nếu nổi lên một ý niệm của tâm lý nhị thừa hay ngoại đạo thì phạm tội khinh cấu.
Không rời Bồ đề tâm là thể hiện thường xuyên đức tin đại thừa và hành trì thường xuyên giới pháp đại thừa. Nếu tâm lý có ý niệm tự lợi hay nghi hoặc xen vào là rời Bồ đề tâm, là tiểu thừa và ngoại đạo. Bằng cách mọi cử động đi đứng nằm ngồi, và ngày đêm sáu buổi, đều phải đọc tụng giới pháp, đọc tụng ở đây không phải là bố tát tụng giới, mà là nói tắt về 5 pháp hạnh đối với Bồ tát giới: thọ trì, độc tụng, chánh ức niệm, giải nghĩa thú, như thuyết hành (hoặc thọ trì, độc, tụng, giải thuyết, sao chép). Vị Tỳ kheo bị buộc bằng cỏ, sự tích nằm trong Đại trang nghiêm kinh luận, nói vị Tỳ kheo vì tuân lời Phật dạy không được bứt cỏ, nên bị giặc trói bằng cỏ mà vẫn cố chịu chứ không chịu làm trái lời Phật.
Số 35: Không Được Không Phát Đại Nguyện
Phật tử thì phải thường phát khởi mọi lời nguyện, như nguyện hiếu thuận cha mẹ, đại sư, chư tăng, Tam bảo; nguyện gặp được vị pháp sư tuyệt hảo và các vị thiện tri thức đồng một sở học, để luôn luôn dạy cho mình kinh luật đại thừa và các Bồ tát vị là mười phát thú, mười trưởng dưỡng, mười kim cang và mười địa, làm cho mình lý giải và thực hành chính xác; nguyện kiên trì giới pháp của Phật, dầu phải mất tánh mạng đi nữa, một thoáng cũng không để rơi mất khỏi tâm trí cái niệm kiên trì ấy. Nếu là Bồ tát mà không phát khởi mọi lời nguyện như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Mọi lời nguyện ở đây là nguyện được hiếu thuận với cha mẹ và Tam bảo, nguyện được thầy bạn tuyệt hảo để học và hành Bồ tát giới và Bồ tát vị, và căn bản là nguyện được cái chí kiên trì giới pháp của Phật. Tóm tắt thì như vậy, kê ra thì có 10 lời nguyện như sau: nguyện hiếu thuận với cha mẹ, đại sư, chư tăng và Tam bảo, nguyện được thầy tuyệt hảo, nguyện được bạn đồng sở học, nguyện được chỉ dạy cho kinh luật đại thừa là Bồ tát giới Phạm võng, nguyện được hiểu thập trú, nguyện được hiểu thập hạnh, nguyện được hiểu thập hướng, nguyện được hiểu thập địa, nguyện được thực hành chính xác, nguyện kiên trì giới pháp.
Số 36: Không Được Không Phát Đại Thệ
Phật tử thì phát khởi mười lời nguyện rộng lớn rồi, để kiên trì giới pháp của Phật, lại có những lời thề như sau. Thà đem thân này gieo xuống hố lửa, núi dao, quyết không phá hủy giới pháp của tam thế chư Phật bằng cách làm sự bất tịnh với bất cứ nữ nhân nào. Lại thề rằng thà bị lưới sắt nóng ngàn lớp quấn lấy thân thể, quyết không đem cái thân phá giới mà mặc y phục của tín đồ hiến cúng; thề rằng thà miệng phải nuốt viên sắt nóng hay dòng lửa dữ đến cả trăm ngàn đời, quyết không đem cái miệng phá giới mà ăn thực phẩm của tín đồ hiến cúng; thề rằng thà thân này phải nằm trong lưới sắt đỏ hay trên đất sắt nóng, quyết không đem cái thân phá giới mà nằm ngồi giường ghế của tín đồ hiến cúng; thề rằng thà thân này một đời vài đời chịu hàng trăm mũi giáo đâm vào, quyết không đem cái thân phá giới mà dùng dược phẩm của tín đồ hiến cúng; thề rằng thà thân này gieo vào vạc sắt nóng đến cả trăm ngàn đời, quyết không đem cái thân phá giới mà ở phòng ốc, nhà cửa, vườn tược và đất đai của tín đồ hiến cúng. Lại thề rằng thà thân này bị chùy sắt giáng đập từ đầu đến chân nát như bụi nhỏ, quyết không đem cái thân phá giới mà nhận sự cung kính lễ bái của tín đồ. Lại thề rằng thà bị cả trăm cả ngàn khí cụ bằng sắt nóng móc mất đôi mắt đi, quyết không đem đôi mắt ấy với tâm phá giới mà nhìn vào sắc đẹp; thề rằng thà một đời hai đời bị cả trăm cả ngàn dùi sắt đâm vào hai tai, quyết không đem hai tai ấy với tâm phá giới mà nghe đến tiếng hay; thề rằng thà bị cả trăm cả ngàn dao bén cắt mất mũi đi, quyết không đem cái mũi ấy với tâm phá giới mà ngửi đến hơi thơm; thề rằng thà cái lưỡi bị cả trăm cả ngàn dao bén cắt đứt, quyết không đem cái lưỡi ấy với tâm phá giới mà nếm vào mùi ngon; thề rằng thà thân này bị chặt bị xả bởi búa sắc, quyết không đem cái thân ấy với tâm phá giới mà chạm vào chỗ ưa thích. Lại phát khởi lời thề như sau, thề làm cho hết thảy chúng sinh đều thành Phật đà. Nếu là Bồ tát mà không phát khởi những lời thề như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Để hoàn thành 10 lời nguyện mà quan trọng là nguyện kiên trì giới pháp của Phật, phải có những lời thề như sau. Thứ nhất, thề không làm sự bất tịnh; giới này lấy nam làm điển hình mà nói đến nên đối tượng là nữ, như vậy nữ thì đối tượng là nam, và chứng tỏ sinh lý làm cho phá giới hơn cả. Thứ hai, thề nếu phá giới thì không nhận đồ mặc, đồ ăn, đồ nằm, dược phẩm và chỗ ở, chứng tỏ nhu cầu hay làm cho phá giới. Thứ ba, thề nếu phá giới thì không nhận sự tôn kính lễ bái, chứng tỏ sự không biết hổ thẹn hay làm cho phá giới. Thứ tư, thề 5 căn không tiếp xúc 5 cảnh bằng tâm phá giới, chứng tỏ giác quan hay làm cho phá giới. Thứ năm, thề làm cho chúng sinh được làm Phật cả, lời thề này là tổng quát và căn bản, chứng tỏ thệ nguyện lớn lao thì khó mà có sự phá giới. Mười lời nguyện rộng lớn, ai cũng nói là 10 lời nguyện nói trong giới nhẹ 35 ở trên, nhưng có người dẫn kinh Phát Bồ đề tâm mà đưa ra pháp số khác, và không ai đồng ý (Vạn 60/96A và 231A). Dòng lửa dữ, chính văn là đại lưu mãnh hỏa, là nhỏ thì như nước đồng sôi mà rót ra, lớn thì như thác lửa tuôn ra khi hỏa diệm sơn phun lửa.
Số 37: Không Được Mạo Hiểm Tai Nạn
Phật tử thì thường mỗi năm phải có hai kỳ thực hành đầu đà, mùa đông mùa hạ phải tọa thiền an cư. Thực hành đầu đà thì thường dùng nhánh dương để làm tăm, đậu để rửa, ba pháp y, bình, bát, tọa cụ, tích trượng, lư hương, đãy lọc nước, khăn tay, con dao, đồ lấy lửa, nhíp, giường giây, kinh luật Bồ tát giới và tượng Phật Bồ tát. Là Bồ tát thì khi thực hành đầu đà và khi đi du hóa, dầu đi lại cả trăm dặm ngàn dặm đi nữa, mười tám vật ấy vẫn thường mang theo mình. Hai kỳ đầu đà là từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba, từ rằm tháng tám đến rằm tháng mười, trong hai kỳ ấy, mười tám vật cũng thường mang theo mình như hai cái cánh với con chim. Bố tát tụng giới thì các vị Bồ tát mới học đã phải nửa tháng nửa tháng bố tát, tụng mười giới nặng và bốn mươi tám giới nhẹ; khi tụng thì đối trước tượng Phật Bồ tát mà tụng; một người bố tát thì một người tụng, mà hai ba cho đến hàng trăm hàng ngàn người cũng chỉ một người tụng; người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp, ai cũng mang pháp y chín điều bảy điều hay năm điều. Kiết hạ an cư thì nhất nhất phải làm cho đúng phép. Khi thực hành đầu đà thì đừng đến chỗ tai nạn; chỗ nguy hiểm, chỗ quốc chúa tàn bạo, chỗ đất quá cao thấp, chỗ cây cỏ rậm rạp, chỗ cọp beo sư tử, chỗ hay bị nạn nước lửa gió, chỗ có đạo tặc, chỗ đường sá đầy rắn độc, những chỗ tai nạn như vậy đều không được đến đó. Thực hành đầu đà, cho đến kiết hạ an cư, đều không được đến ở những chỗ tai nạn như vậy. Nếu cố ý đến thì phạm tội khinh cấu.
Trừ ra sự du hóa phải tìm hết cách mà thâm nhập quần chúng, với sự đề phòng càng cẩn thận càng tốt; lại trừ ra sự bố tát tụng giới chỉ cần thì gian ngắn và luật đã dạy cách ứng phó; còn 2 sự này không được đến ở những chỗ tai nạn: đầu đà và an cư. Giới văn dạy các hạnh du hóa, đầu đà, bố tát, an cư, nhưng đầu đà và bố tát được nói đến nhiều hơn.
Về đầu đà (đập rủ sự tham lam về ăn, mặc, ở) có 12 hạnh và 18 vật. Mười hai hạnh như sau, kê theo Đại bát nhã mà Vạn 60/231B và 438B trích dẫn và tôi xếp lại thứ lớp: ăn có 5 hạnh, là thường khất thực chứ không thọ thỉnh, khất thực theo thứ tự không lựa chọn giàu nghèo quen lạ hay cùng đạo khác đạo, mỗi ngày ăn 1 bữa và ngồi ăn 1 lần, ăn chừng mực là đáng ăn 3 phần mới no thì ăn 2 phần thôi, và sau đứng bóng thì nước vắt trái cây cũng không dùng; mặc có 2 hạnh, là mặc 3 pháp y thứ vải thô mà chắp vá, và chỉ mặc 3 pháp y mà thôi; ở có 5 hạnh, là ở chỗ thanh vắng mà cách làng xóm bò rống lớn mới nghe, chỗ tha ma để dễ quán bất tịnh và sự chết, chỗ dưới gốc cây chứ không che cất chòi thất, chỗ đất trống để đêm trăng thanh dễ nhập Không tam muội, và thường ngồi mà ngồi ngay thẳng chứ không nằm. Du dà luận nói sự tham lam về ăn mặc ở không thuận lợi cho phạm hạnh; như lông không đập thì không thể làm thảm, đầu đà đập rủ sự tham lam ấy để thành tựu phạm hạnh. Trí độ luận nói, Phật pháp chỉ lấy tuệ giác làm căn bản, không lấy khổ hạnh làm ưu tiên, nhưng 12 hạnh đầu đà giúp cho tuệ giác nên Phật thường ca tụng. Còn 18 vật của hạnh đầu đà thì cũng là của hạnh du hóa, và chính văn kê đã rõ. Tựu trung, bát là nói về sự ăn, 3 pháp y là nói về sự mặc, và tọa cụ là liên quan sự ở. Ngoài ra, nhánh dương để làm tăm mà xỉa răng và nhấm, nay là tăm và đồ đánh răng; đậu để rửa vốn dùng các thứ đậu và hạt, hoặc nước tro, bồ kết, bồ hòn, nay là xà phòng; tích trượng phòng rắn và thú dữ, lại để báo hiệu trong khi đi khất thực; đồ lấy lửa là dùng cây, đá, thủy tinh mà lấy lửa, nay là diêm, quẹt; giường giây là lòng giường đan mây, đan giây, là võng; nhíp để nhổ gai vì đi chân trần.
Về du hóa, càng đi xa càng phải mang theo 18 vật như đầu đà. Về an cư, nói nhất nhất phải làm cho đúng phép là đúng như trong Luật đã qui định. Về bố tát, nói ai cũng mang pháp y 9 điều 7 điều hay 5 điều là nói cho người xuất gia thọ Bồ tát giới. Nói Bồ tát mới học là nói ngay các vị này đã phải tụng giới, không phải nói chỉ các vị này mới phải tụng giới còn các vị trên nữa thì khỏi. Trong sự bố tát tụng giới, điều quan trọng là phải ngồi theo thứ tự mà giới 38 sau đây sẽ nói; còn người tụng giới thì cũng theo thứ tự ấy mà chọn người có khả năng nhất trong chúng cao nhất của các chúng đồng bố tát. Không có cái phép trong chúng cao mà không có người có khả năng tụng giới đến nỗi phải chọn người trong chúng dưới; nói cách khác, bất cứ ai thọ Bồ tát giới rồi, không có cái phép không thể tụng giới ấy: đoạn 2 mục 3 của tiết 1 Phật đã qui định như vậy.
Thực hành đầu đà cho đến kiết hạ an cư đều không được đến ở những chỗ tai nạn, "cho đến" là nói lược về du hóa và bố tát. Du hóa thì cần thâm nhập mọi nơi, bố tát thì chỉ cần thì gian ngắn, nên có thể không cần tránh những chỗ tai nạn; nhưng chỉ có thể, không phải hoàn toàn không cần. Còn đầu đà và an cư thì phải tránh. Trong những chỗ tai nạn phải tránh, chỗ nguy hiểm, chính văn là ác quốc giới: nước dữ, có bản chép quốc nạn: tai nạn cả nước, như vậy cũng có nghĩa là chỗ đang bị tai nạn như chiến tranh, khủng hoảng..., nhưng Vạn 60/440A nói ác quốc giới là chỗ mà người và cảnh đều không hiền, vậy thì chỗ nguy hiểm còn là nơi nhân tâm hung dữ. Nghĩa này đủ và quan trọng hơn. Sự cấm mạo hiểm tai nạn của giới này cho thấy đối với thân người, Phật pháp khinh là khinh như thế nào mà quí là quí như thế nào.
Sau hết, bố tát thì các vị Bồ tát mới học đã phải nửa tháng nửa tháng thường bố tát, tụng 10 giới nặng và 48 giới nhẹ; khi tụng thì đối trước tượng Phật Bồ tát mà tụng; một người bố tát thì một người tụng..., có bản chép gọn hơn, theo đó thì phải dịch: ngày bố tát, khi các vị Bồ tát mới học nửa tháng nửa tháng bố tát tụng 10 giới nặng và 48 giới nhẹ, thì đối trước Phật Bồ tát, 1 người bố tát 1 người tụng... Những chỗ tai nạn như vậy không được đến đó. Thực hành đầu đà cho đến kiết hạ an cư đều không được đến ở những chỗ tai nạn như vậy. Nếu cố ý đến thì phạm tội khinh cấu, có bản chép hơi khác, theo đó thì phải dịch: những chỗ tai nạn như vậy đều không được đến đó. Vì đó là những chỗ tai nạn cho hạnh đầu đà. Kiết hạ an cư mà những chỗ tai nạn ấy cũng không được đến, huống chi thực hành đầu đà. Thấy chỗ tai nạn mà có ý đến thì phạm tội khinh cấu. 
Số 38: Không Được Ngồi Không Thứ Tự
Phật tử thì sự ngồi phải có thứ tự đúng như chánh pháp, nghĩa là ai thọ giới trước thì ngồi trước, ai thọ giới sau thì ngồi sau. Không kể già trẻ, Tỳ kheo Tỳ kheo ni, quí nhân quốc vương vương tử, cho đến hoàng môn nô bộc tỳ thiếp, tất cả đều nên ai thọ giới trước thì ngồi trước, ai thọ giới sau thì tuần tự mà ngồi. Đừng như ngoại đạo ngu si, già cũng như trẻ không trước không sau, ngồi hỗn tạp như binh nô. Trong chánh pháp của Như Lai, người trước ngồi trước, người sau ngồi sau. Nếu là Bồ tát mà ai nấy không ngồi theo thứ tự đúng như chánh pháp, thì phạm tội khinh cấu.
Không phải chỉ một sự ngồi, mà mọi sự cư xử, bình thường cũng như nghi lễ, đều phải căn cứ thứ tự. Thứ tự ấy có 2, tóm tắt theo Vạn 60/373B 376B, như sau.
Một là thứ tự giữa các chúng. Các chúng có 9, chia ra 2 bộ. Khi 2 bộ ngồi riêng, thì bên tăng bộ thứ tự như sau: Tỳ kheo đứng đầu, kế đến sa di, đến cận trú nam, đến cận sự nam; bên ni bộ thứ tự như sau: Tỳ kheo ni đứng đầu, kế đến thức xoa, đến sa di ni, đến cận trú nữ, đến cận sự nữ. Khi 2 bộ ngồi chung thì thứ tự như sau: hết Tỳ kheo đến Tỳ kheo ni, hết Tỳ kheo ni đến thức xoa, hết thức xoa đến sa di, hết sa di đến sa di ni, hết sa di ni đến cận trú nam, hết cận trú nam đến cận trú nữ, hết cận trú nữ đến cận sự nam, hết cận sự nam đến cận sự nữ.
Hai là thứ tự trong các chúng. Thứ tự này cũng có 2. Thứ nhất, 2 chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni phải lấy tuổi Tỳ kheo giới làm thứ tự, vì giới ấy là bản thể của Tăng bảo. Thọ Bồ tát giới trước Tỳ kheo giới mấy năm cũng không kể, vì giới ấy không biến thành Tỳ kheo giới; nhưng thọ Bồ tát giới sau Tỳ kheo giới thì Tỳ kheo giới biến thành Bồ tát giới, nên tuổi Bồ tát giới bấy giờ được kể theo tuổi Tỳ kheo giới. Thứ 2, 7 chúng còn lại thì y theo tuổi Bồ tát giới mà làm thứ tự (khi tụng Bồ tát giới).
Riêng thứ tự lấy theo tuổi Tỳ kheo giới thì gọi là "thứ tự của chư tăng" mà các giới nhẹ 26, 27 và 28 đã nói.
Thứ tự như trên đây là ý niệm bình đẳng có lý: ý niệm bình đẳng theo tư cách giới pháp. Nếu thứ tự kể theo giai cấp và tuổi tác, nếu bình đẳng một cách hỗn tạp, thì đó là binh nô: chỉ lấy sức mạnh mà giành phần.
Nếu là Bồ tát mà ai nấy không ngồi theo thứ tự đúng như chánh pháp, có bản chép gọn hơn, theo đó thì chỉ dịch: Nếu là Bồ tát mà không ngồi theo thứ tự... 
Số 39: Không Được Không Làm Lợi Lạc
Phật tử thì thường khuyến hóa mọi người kiến thiết tăng phường, tạo lập núi rừng, ruộng vườn, xây dựng tháp Phật, thiết lập những chỗ để mùa đông mùa hạ tọa thiền an cư, nói tóm, tất cả những cơ sở hành đạo đều nên kiến thiết. Là Bồ tát thì lại phải diễn giảng cho mọi người về kinh luật đại thừa. Nhưng lúc tật bịnh, quốc nạn, giặc giã, những ngày mạng vong của cha mẹ, anh em, của đại sư hoà thượng và đại sư xà lê thì từ ngày ấy cho đến ngày tam thất và chung thất, cũng nên trì tụng và diễn giảng kinh luật đại thừa. Những lúc làm chay cầu phước, đi lại làm ăn mà có thể bị lửa dữ thiêu đốt, nước lớn trôi chìm, gió bão thổi bạt thuyền bè nguy khốn trong sông to biển cả đầy nạn la sát, thì trước đó cũng nên đọc tụng giảng nói kinh luật đại thừa. Cho đến hết thảy khổ báo là ba ác, bảy nghịch, tám nạn, gông cùm, xiềng xích, trói buộc, đa dâm, đa sân, đa si, đa bịnh, đều nên giảng nói kinh luật đại thừa. Nếu vị Bồ tát mới học không làm như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Thường khuyến hóa mọi người kiến thiết, nếu là tại gia thọ Bồ tát giới thì phải thêm: thường tự mình và khuyến hóa... Ngoài việc tạo lập các cơ sở hành đạo, giới pháp này đặc biệt khuyến khích tụng và giảng Bồ tát giới Phạm võng trong mọi trường hợp cầu an, cầu siêu, cầu nguyện, cầu diệt khổ nhân, cầu trừ khổ báo. Như vậy Bồ tát giới Phạm võng có thể bao gồm hết thảy công năng các kinh Dược sư, Phổ môn, Di đà, Bát nhã. Tạo lập núi rừng, là tạo lập những khu vườn lớn, cây có nước có, có đủ tăng xá. Từ ngày mạng vong cho đến ngày tam thất và chung thất, nói như vậy không phải các ngày và các tuần khác không cần cầu siêu, mà chỉ nói quan trọng nhất là ngày mới chết, ngày tam thất và ngày chung thất, chứ không phải chỉ ngày chung thất mới quan trọng như ta thường làm. Gió bão, chính văn là hắc phong (gió đen), là cuồng phong vùng tâm bão, vùng gió mưa mây nước tạo thành bầu trời đen tối. Khổ báo 3 ác là 3 đường dữ địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh; nhưng có người thấy có bản chép 3 báo nên giải thích là khổ báo chịu trong đời này (hiện báo) đời sau (sinh báo) hay những đời sau nữa (hậu báo). Khổ báo 7 nghịch là vô gián ngục.
Chín giới pháp nhẹ như vậy các người phải học, phải cung kính phụng trì, như Như Lai sẽ nói rõ trong phẩm Phạn đàn.
Kết thúc 9 giới nhẹ thứ nhất.
Số 40: Không Được Chọn Lựa Truyền Giới
Phật tử thì khi cho người thọ Bồ tát giới không được chọn lựa. Hết thảy quốc vương vương tử, tể tướng bách quan, Tỳ kheo Tỳ kheo ni, thiện nam tín nữ, dâm nam dâm nữ, phạn thiên mười tám tầng trời cõi Sắc, thiên nhân sáu tầng trời cõi Dục, những kẻ vô căn, hai căn, hoàng môn, nô bộc, tỳ thiếp, tất cả quỉ thần, ai cũng được thọ Bồ tát giới cả. Phải dạy người thọ Bồ tát giới nhuộm pháp y bằng hoại sắc cho hợp với chánh pháp. Hoại sắc là nhuộm tất cả pháp y và ngọa cụ bằng màu sắc phá hủy các màu sắc chính là xanh vàng đỏ trắng đen tía. Mọi thứ y phục khác cũng nhuộm hoại sắc như vậy. Nói tổng quát, tại bất cứ quốc độ nào, dân chúng ở đó ăn mặc ra sao thì vị Tỳ kheo ăn mặc phải khác với lối ăn mặc ấy. Khi sắp thọ Bồ tát giới, vị pháp sư Bồ tát phải xét hỏi người ấy, rằng thân hiện tại có làm bảy tội nghịch không? Vị pháp sư Bồ tát không được cho những người thân hiện tại làm bảy tội nghịch được thọ Bồ tát giới. Bảy tội nghịch là làm cho thân Phật xuất huyết, giết cha, giết mẹ, giết hòa thượng, giết xà lê, phá kiết ma tăng và pháp luân tăng, giết thánh giả. Nếu có bảy tội nghịch thì kẻ ấy thân hiện tại không thể được Bồ tát giới. Ngoài ra, ai cũng có thể thọ và được giới ấy. Cái phép của người xuất gia là không lạy quốc vương, không lạy cha mẹ, không lạy bà con, không lạy quỉ thần, nên không thiên vị hoặc khước từ ai hết, hễ ai hiểu được tiếng nói của vị pháp sư Bồ tát, từ trăm dặm ngàn dặm vẫn đến cầu Bồ tát giới, mà vị pháp sư ấy vì tâm lý xấu xa, tâm lý ghét giận, không truyền ngay cho họ giới pháp mà tất cả chúng sinh đều có phần thì phạm tội khinh cấu.
Bồ tát giới là của chúng sinh; trừ những kẻ phạm 7 tội nghịch thì thân đời này của họ không thể thọ và được giới ấy, còn bất cứ ai hảo tâm cầu giới ấy cũng đáng được truyền ngay. Hãy coi lại và đối quán chính văn này với chính văn đoạn 3 mục 3 tiết 1.
Bảy tội nghịch là ngoài 5 tội nghịch còn thêm 2 tội giết hòa thượng và giết xà lê. Làm thân Phật xuất huyết là tội nghịch 1. Xưa kia, Đề bà lăn đá hại Phật, nhưng thân Phật không thể hại được, chỉ làm chảy máu ngón chân của ngài. Nay thì đốt phá kinh Phật tượng Phật là cùng loại. Giết cha, giết mẹ là tội nghịch 2 và 3. Ấy là giết 2 người sinh ra sinh thân của mình. Giết hòa thượng, giết xà lê là tội nghịch 4 và 5. Ấy là giết 2 vị sinh ra giới thân cho mình. Giết thánh giả, nói hẹp là giết La hán, là tội nghịch 6. Ấy là giết các vị giải thoát. Phá tăng là tội nghịch 7. Tội này phân ra có 2: phá kiết ma tăng và phá pháp luân tăng. Phá kiết ma tăng: mở đầu, Đề bà dụ dổ một số Tỳ kheo tách ra kiết ma thuyết giới riêng; sau đó, chỉ cần tối thiểu 8 vị Tỳ kheo cùng ở 1 chỗ, 1 kẻ trong đó dụ dổ 3 người cùng kẻ ấy là 4, tách ra làm 1 nhóm mà kiết ma thuyết giới hay làm những sự kiết ma khác, là cùng loại. Phá pháp luân tăng: mở đầu, Đề bà lập ra tam bảo giả trá để chống phá Tam bảo chân thật; sau đó chỉ cần tối thiểu 9 vị Tỳ kheo không cần cùng ở 1 chỗ, 1 kẻ trong đó dụ được 4 người cùng kẻ ấy tách ra, kẻ ấy tự xưng giáo lãnh, lập giáo pháp và họp 4 kẻ kia làm giáo đoàn riêng, là cùng loại. Cả 2 tội trên đây chung lại gọi là phá tăng hay phá tăng hòa hợp, có nghĩa làm tan rã sự cùng sống với nhau bằng giới pháp và giáo pháp của chư tăng. Nói cách khác là phá hoại Phật giáo. Do vậy mà nay bất cứ chủ trương và hành động nào phá hoại Phật giáo, là cùng loại. Tất cả 6 tội trước trong 7 tội nghịch là sát sinh cực nặng (dầu làm thân Phật xuất huyết chỉ là phần da hành của tội ấy), còn tội thứ bảy là vọng ngữ cực nặng. Bảy tội nghịch là tội đọa vô gián ngục, nhất là tội phá pháp luân tăng, vì làm thương tổn pháp thân của Phật (Câu xá, Chính 28/92 94).
Ở đây, đối với Bồ tát giới thì chỉ những kẻ phạm 7 tội nghịch mới không thể thọ và không thể được giới ấy. Do đó, 7 tội ấy có bản chép là 7 sự cản trở (thất giá). Ngoài những kẻ phạm 7 tội nghịch, mọi người ai cũng phải được cho thọ Bồ tát giới, không được lựa chọn, khước từ. Thế nhưng, những kẻ trà trộn hay mai phục để phá hoại Phật giáo thì đó cũng là 1 trong 6 loại tặc trú, không thể không tra xét cho kyՍ mà cứ cho thọ Bồ tát giới. Lại nữa, giới này cấm là cấm lựa chọn theo tà ý, còn vị truyền giới phải xét người cầu giới có xứng đáng không, người cầu giới phải xét vị truyền giới có xứng đáng không, thì lại là sự răn dạy phải làm của Bồ tát giới du dà (mà Vạn 60/378B trích dẫn). Cho nên lựa chọn hay không lựa chọn theo tà ý thì toàn là cung cách làm cho Phật pháp suy tàn.
Sau hết, đây là mấy chỗ cần giải thích. Vô căn: không có cả 2 bộ phận sinh thực. Hai căn: ngược với vô căn. Hoàng môn: gọi chung 5 loại người lại cái. Phải dạy người thọ Bồ tát giới nhuộm pháp y bằng hoại sắc: do chính văn liên tiếp dưới câu này nói rõ mà biết đây là dạy cho Tỳ kheo (và mọi người xuất gia). Ngọa cụ ở đây là những thứ đồ nằm. Mọi thứ y phục khác là mọi thứ khác nữa thuộc về y phục, trong đó có các thứ khăn. Cái phép của người xuất gia là không lạy..., câu này cho thấy rõ vị truyền Bồ tát giới phải là người xuất gia. 
Số 41: Không Được Vụ Lợi Làm Thầy
Phật tử nếu giáo hóa cho người phát sinh đức tin đại thừa rồi, mình là Bồ tát làm vị pháp sư chỉ bảo cho người, thì thấy người ấy muốn thọ Bồ tát giới, mình phải chỉ bảo cách thỉnh hai vị đại sư là hòa thượng và xà lê. Hai vị đại sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm bảy tội nghịch là bảy tội cản trở sự thọ và được Bồ tát giới. Nếu thân hiện tại phạm bảy tội nghịch thì vị pháp sư không được cho người ấy thọ Bồ tát giới; nếu không phạm bảy tội nghịch thì được cho họ thọ. Nếu người nào phạm mười giới pháp nặng thì phải chỉ bảo người ấy sám hối bằng cách đối trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, ngày đêm sáu buổi tụng mười giới pháp nặng và bốn mươi tám giới pháp nhẹ, cực kỳ khẩn thiết lễ bái ba ngàn đức Phật thuộc ba thì gian quá khứ hiện tại và vị lai, cầu cho thấy được tướng tốt. Dầu một lần bảy ngày hay ba lần bảy ngày, cho đến một năm, cũng phải làm sao cho thấy được tướng tốt. Tướng tốt là thấy được Phật đến xoa trên đỉnh đầu, thấy ánh sáng của Phật, thấy hoa sen của Phật, hoặc thấy các tướng kỳ lạ khác, thì tội lỗi tức thì tan biến. Nếu không thấy được những tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối cũng không có cái ích lợi làm cho người ấy thân hiện tại được lại giới pháp, nhưng có cái lợi ích thọ lại giới pháp ấy. Nếu ai phạm bốn mươi tám giới pháp nhẹ thì chỉ bảo người ấy sám hối bằng cách đối diện mà phát lộ, thì tội lỗi tức thì tan biến. Phạm giới nặng hay nhẹ đều không như bảy tội nghịch. Làm pháp sư chỉ bảo thì trong các cách trên đây nhất nhất phải thấu hiểu. Nếu không thấu hiểu sự đúng sai và tội nặng nhẹ của giới pháp đại thừa, không lý giải đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưỡng tánh, bất hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh, trong tất cả các tánh của Bồ tát vị như vậy không thấu rõ quán hạnh nhiều ít và ra vào như thế nào, cho đến mười thành phần thiền định và bao nhiêu quán hạnh khác, cũng nhất nhất không thấu hiểu nghĩa ý trong đó; mà, là Bồ tát, lại vì quyền lợi, vì danh vọng, vì ham hố đồ đệ với tâm lý ham cầu xấu xa và quá đáng, làm ra như thấu hiểu tất cả, thì ấy là tự lừa dối mình lại lừa dối kẻ khác. Vậy mà cố ý truyền Bồ tát giới cho người thì phạm tội khinh cấu.
Giới này nối tiếp các giới 16, 40, nhất là giới 23, răn dạy cách làm pháp sư. Pháp sư này trước đây đã gọi là pháp sư đại thừa, pháp sư Bồ tát, nay đây gọi là pháp sư chỉ bảo. Pháp sư chỉ bảo là đại sư giáo thọ. Nhưng sự chỉ bảo này không phải chỉ có lúc sắp thọ giới hay lúc thọ giới, mà là trước nữa, phải giáo hóa làm sao cho người có thể thọ và giữ Bồ tát giới. Giới 41 này gần như tổng hợp cách làm pháp sư như vậy. Cách ấy có 4: một, dạy cho người phát sinh đức tin đại thừa, hai, dạy cách thọ giới, ba, dạy cách sám hối phạm giới, bốn, thấu hiểu về Bồ tát giới và Bồ tát vị.
Một, dạy cho người phát sinh đức tin đại thừa là tin mình sẽ làm Phật. Nhưng nói như vậy là nói tắt về những sự khác nữa, ấy là dạy cho người biết đại thể về Bồ tát giới, dạy cho người có chí nguyện và khả năng để thọ và giữ giới ấy, như đã nói trong các giới nhẹ trước liên quan đến những việc này.
Hai, dạy cách thọ Bồ tát giới. Là xét và không truyền giới ấy cho người phạm 7 tội nghịch, nhưng càng phải giáo hóa sao cho người này có những cái phước khác. Còn ai không phạm 7 tội nghịch thì cho thọ Bồ tát giới bằng cách dạy thỉnh 2 vị đại sư hòa thượng và đại sư xà lê. Nhưng xét Phạm võng (giới 23) Anh lạc (Chính 24/1020) Thiện giới (Chính 30/1014) Du dà (Chính 24/1104) và Địa trì (Chính 30/912) đều thấy Bồ tát giới chỉ do 1 vị thầy truyền thọ. Chính 1 vị thầy ấy, trước khi truyền giới thì làm pháp sư chỉ bảo, khi truyền giới thì làm 2 nhiệm vụ đại sư hòa thượng và đại sư xà lê. Giới văn nói chỉ bảo cách thỉnh 2 vị đại sư là hòa thượng và xà lê, là vị thầy chỉ bảo cho người xin thọ giới biết cách thức thỉnh mình làm cả 2 nhiệm vụ hòa thượng và xà lê mà truyền giới cho người ấy. Giới văn nói 2 vị đại sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm 7 tội nghịch, là vị thầy ấy, bây giờ, với tư cách hòa thượng và xà lê, hỏi để xác định người xin thọ giới có hay không có phạm vào những tội cản trở sự thọ giới và sự được giới. Việc này giới 40 đã hỏi, nhưng hỏi để tra xét, nay chỉ hỏi theo nghi thức. Nghi thức mà 1 vị thầy phải nói và phải làm trong việc kiết ma truyền Bồ tát giới thì Chính 24/1104 và 1105 chỉ dẫn rất rõ. Nhất là lời kiết ma, xin lược dịch như sau: Vị thầy truyền giới đối trước tượng Phật lạy và bạch, rằng kính bạch vô lượng Phật đà và Bồ tát hiện tại vô lượng thế giới, hiện thời ở đây có Bồ tát tên XX, đối trước con là Bồ tát XX, 3 lần nói thọ Bồ tát giới, con đã tác chứng cho. Con thỉnh cầu vô lượng Phật đà và Bồ tát cũng tác chứng cho Bồ tát XX thọ Bồ tát giới. Bạch lần thứ 2 và lần thứ 3 cũng như vậy. Như vậy là kiết ma thọ Bồ tát giới được hoàn tất (chính 24/1105). Thế nhưng đối với câu "thỉnh 2 vị đại sư", các vị chú thích có nhiều ý kiến, xin tóm tắt ghi lại như sau. Có vài người lướt qua, rõ ràng có ý thận trọng; có vài ba người nói vị pháp sư chỉ cách thỉnh đức Thích Ca làm hòa thượng, thỉnh mình làm xà lê; có người nói chỉ cách thỉnh mình làm hòa thương, thỉnh 1 vị khác là kiết ma xà lê; có người nói mình làm giáo thọ xà lê, chỉ cách thỉnh đức bổn sư Thích Ca làm hòa thượng, chỉ cách thỉnh đức đương lai Di Lặc làm xà lê. Ấy là chỉ kể những ý kiến đáng chú ý. Những ý kiến này gợi lên sự xét lại cách truyền Bồ tát giới. Cách ấy trong lý thuyết và thực tế thấy có 2. Thứ nhất là cách 1 thầy truyền cho 1 trò. Cách này nên lấy sự chỉ dẫn của luận Du dà làm chính (Chính 24/1104 1105). Tham khảo thì có thể coi thêm Vạn 59/197A và 198B. Đặc biệt nếu truyền cho cận sự nam và cận trú nam theo Ưu bà tắc giới kinh thì có thể làm theo kinh ấy (Chính 24/1047 1049). Thứ hai là cách tổ chức giới đàn truyền cho nhiều người như nghi thức hiện hành, thì có 2 lớp tam sư thấy được và không thấy. Lớp tam sư không thấy là đức Thích Ca làm hòa thượng, đức Văn thù làm kiết ma, đức Di Lặc làm giáo thọ; lớp này căn cứ kinh Thiện giới và Phổ hiền, và "từ lớp này mà được giới là do sức trợ phát của đức Phổ hiền" (Chính 62/246). Lớp tam sư thấy được là hòa thượng, kiết ma và giáo thọ trong giới đàn; lớp này dạy thỉnh và đứng thỉnh lớp trước kiết ma hoàn tất. Cách truyền giới 1 thầy 1 trò có cái ưu điểm là nghĩa vụ của vị thầy rất quan trọng cho người thọ giới, còn cách truyền giới trong giới đàn thì nhược điểm ở chỗ thọ giới rồi thầy trò hầu như chẳng còn biết gì đến nhau nữa.
Ba, dạy cách sám hối phạm giới. Trước hết, phạm 7 tội nghịch thì đời này không được thọ Bồ tát giới, còn gì nữa mà nói đến sám hối. Nếu thọ Bồ tát giới rồi mới phạm 7 tội nghiểch thì đời này mất giới pháp ấy, không thể sám hối để được lại hay thọ lại gì hết. Nhưng nói không thể sám hối là đối với giới pháp, chứ sự sám hối về 7 tội nghịch thì vẫn có. Đó là chuyện A Xà Thế vương sám hối tội giết cha, ngay trong thời Phật còn và được ngài chấp nhận (Chính 1/109). Làm vị pháp sư thì phải biết như vậy để đừng ruồng bỏ người phạm tội nghịch, làm họ tuyệt vọng, lại phủ nhận năng lực Phật pháp đối với tội ấy.
Ngoài kẻ phạm 7 tội nghịch, ai cũng có thể thọ và được Bồ tát giới. Nhưng thọ và được rồi, nếu phạm 10 giới nặng thì vị pháp sư dạy cho họ phải sám hối thấy tướng tốt mới được phục hồi giới pháp, khỏi phải thọ lại. Sám hối mà không thấy tướng tốt thì được thọ lại, vì người này không phạm 7 tội nghịch. Giới văn nói nếu không thấy được những tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối cũng không có cái ích lợi làm cho người ấy thân hiện tại được lại giới pháp, nhưng có cái ích lợi thọ lại giới pháp ấy, chính văn là nhược vô tướng hảo, tuy sám vô ích, thị nhân hiện thân diệc bất đắc giới, nhi đắc tăng ích thọ giới. Tăng ích thọ giới, có bản chỉ chép tăng thọ giới, có nghĩa là thọ giới lại. Câu chính văn này có nhiều ý kiến. Ý kiến có nhiều nhất, điển hình như ngài Pháp tạng (Vạn 60/100A) là sám hối thấy tướng tốt thì phục hồi giới pháp, không cần thọ lại, còn sám hối không thấy tướng tốt thì không phục hồi giới pháp nhưng được thọ lại giới pháp ấy. Có vài ý kiến thêm chữ "sau này" vào trước chữ thọ lại, có 1 ý kiến thêm chữ "đời sau". Ý kiến như chính văn là đời này có thể thọ lại, ý kiến thêm chữ sau này là đời này hay đời sau có thể thọ lại, ý kiến thêm chữ đời sau là đời sau mới thọ lại. Nay xét thọ Bồ tát giới là xuất gia hay tại gia thọ giới ấy, vậy Bồ tát giới tùy thuộc Tỳ kheo giới và tại gia giới. Như vậy, sự phạm giới nặng, nhất là phạm cả 3 phần da hành, căn bản và hậu khởi của mỗi giới, thì dẫu nói Bồ tát giới có thể sám hối mà phục hồi hay thọ lại đi nữa, Tỳ kheo giới và tại gia giới cũng không có cái sự phục hồi hay thọ lại ấy. Trên lý thuyết, nếu có trường hợp chỉ thọ Bồ tát giới thì được thọ lại hay không, thọ lại trong đời này hay đời sau, phải hoàn toàn do vị pháp sư Bồ tát, vị thầy rất xứng đáng, có trách nhiệm quyết định, như đã quyết định lúc mới cho họ thọ.
Sau hết, ai phạm 48 giới nhẹ thì dạy cho họ sám hối theo cách đối diện bộc bạch mà sám hối là được tiêu trừ. Cách này luận Du dà (Chính 24/1106) cũng dạy rất rõ. Đối diện, chính văn là đối thủ, có nghĩa đối diện, giáp đầu mặt mà bộc bạch sám hối. Có người đọc đối thú, có nghĩa đối diện mà thú tội, ý nghĩa như đọc đối thủ. Phạm giới nặng hay nhẹ đều không như 7 tội nghịch, sát chính văn thì chỉ "không như 7 tội nghịch", nên phải bổ túc như trên.
Bốn, thấu hiểu về Bồ tát giới và Bồ tát vị. Thấu hiểu về Bồ tát giới là hiểu làm như thế nào thì đúng, làm như thế nào thì sai, phạm như thế nào thì nặng, phạm như thế nào thì nhẹ, lại còn phải hiểu lý do và nội dung của Bồ tát giới, hiểu cách truyền thọ, cách lãnh thọ và cách sám hối. Thấu hiểu về Bồ tát vị là hiểu căn bản của Bồ tát vị, hiểu chủng tánh của Bồ tát vị, hiểu pháp hạnh của Bồ tát vị. Căn bản của Bồ tát vị là đệ nhất nghĩa đế, tức Phật tánh, cũng gọi là thật tướng bát nhã. Chủng tánh của Bồ tát vị thì kinh Anh lạc nói có 6, và phối hợp rõ như sau: 1, tập chủng tánh là 10 trú, 2, tánh chủng tánh là 10 hạnh, 3, đạo chủng tánh là 10 hướng, 4, thánh chủng tánh là 10 địa, 5, đẳng giác tánh là đẳng giác, 6, diệu giác tánh là diệu giác (Chính 24/1012). Còn ở đây, kinh Phạm võng nói thì ngài Pháp tạng chép có 5 và phối hợp như sau: 1, tập chủng tánh là 10 phát thú (10 trú), 2, trưởng dưỡng tánh là 10 trưởng dưỡng (10 hạnh), 3, bất hoại tánh là 10 kim cang (10 hướng), 4, đạo chủng tánh là 10 địa, 5, chánh pháp tánh là Phật địa (Vạn 60/99B 100B). Nay xét chính văn Phạm võng và Anh lạc, thấy 10 trú 10 hạnh và 10 hướng thì 2 kinh ấy và thông thường nói như nhau, "ý nghĩa thì đồng, danh từ thì khác" (Trí húc, Vạn 60/314A). Nhưng 10 địa thì Anh lạc cũng như thông thường tách đẳng giác và diệu giác ra làm 2 chủng tánh nữa; còn 10 địa trong Phạm võng thì xét thấy bao gồm cả 10 địa và 2 giác. Vậy nên phối hợp lại như sau: một, tập chủng tánh là 10 phát thú (10 trú), hai, trưởng dưỡng tánh là 10 trưởng dưỡng (10 hạnh), ba, bất hoại tánh là 10 kim cang (10 hướng), bốn, đạo chủng tánh và 5, chánh pháp tánh là 10 địa (10 địa và 2 giác). Ý nghĩa 5 danh từ Bồ tát tánh và 4 danh từ Bồ tát vị như trên có thể lược giải như sau. Một, tập chủng tánh: phẩm cách luyện tập, là xuất phát đi mau đến (phát thú), nghĩa là vững vàng trong Bồ tát vị (trú). Hai, trưởng dưỡng tánh: phẩm cách bồi dưỡng, là bồi dưỡng hơn lên nữa (trưởng dưỡng), nghĩa là đi tới về Bồ tát vị (hành). Ba, bất hoại tánh: phẩm cách kiên cố, là kiên cố như kim cương (kim cang), nghĩa là đã hướng đến chân như (hướng). Bốn, đạo chủng tánh: phẩm cách bát nhã, và Năm, chánh pháp tánh: phẩm cách chân như, là sinh trưởng mọi diệu dụng và đã gần như là Phật (địa và đẳng giác diệu giác). Cũng nên ghi chú thêm rằng có bản chép 6 chủng tánh: sau trưởng dưỡng tánh thêm tánh chủng tánh, nhưng xét thấy bất ổn không ít.
Pháp hạnh của Bồ tát vị là các quán hạnh và pháp hạnh. Quán hạnh có 3, là không quán, giả quán và trung quán: 10 phát thú thì từ giả quán vào không quán, không quán còn ít; 10 trưởng dưỡng thì ra không quán vào giả quán, không quán thì nhiều mà giả quán còn ít; 10 kim cang thì xoay không quán giả quán vào trung quán, giả quán thì nhiều mà trung quán còn ít; 10 địa thì trung quán mới nhiều. Không quán là thể hội thật tướng, siêu việt các phạm trù tư duy; giả quán là hoạt dụng thật tướng, lợi ích cho hết thảy chúng sinh; trung quán là dung hóa thật tướng, vô công dụng hạnh đã nhiệm vận hiện tiền. Pháp hạnh thì ở đây đưa ra 10 thiền chi (10 thành phần thiền định). Pháp số này là 10 nhất thế xứ. Trí độ luận nói như sau, trong cuốn 21, "bội xả làm cửa đầu, thắng xứ là đi giữa, nhất thế xứ là hoàn thành, 3 loại này của thiền quán mà đầy đủ thì bản thể thiền quán thành tựu". Vậy là 10 thiền chi (nhất thế xứ, biến xứ) còn lược 2 pháp số nữa, đó là 8 bội xả (giải thoát) và 8 thắng xứ.
Vị pháp sư truyền Bồ tát giới thì căn bản là phải nghiêm trì giới ấy, lại phải hiểu rõ và chỉ dạy được 4 điều trên đây. Nhưng nếu truyền Bồ tát giới với tâm lý ham danh lợi và ham đồ đệ thì hiểu mà truyền cũng vẫn phạm giới này, huống chi không hiểu. Giới văn câu chót làm ra như thấu hiểu tất cả, có bản chép thêm "để được hiến cúng", thêm như vậy vừa thừa vừa thiếu.
Số 42: Không Được Thuyết Giới Ác Nhân
Phật tử thì không được vì quyền lợi mà nói giới pháp vĩ đại của hàng ngàn đức Phật trước những kẻ chưa thọ Bồ tát giới, những kẻ ngoại đạo và ác nhân. Trước những kẻ phủ nhận Phật tánh cũng không được nói. Trừ quốc vương, không được nói với ai cả. Những kẻ ngoại đạo và ác nhân không lãnh thọ giới pháp của chư Phật thì như loài vật, đời đời sinh ra ở đâu cũng không gặp được Phật pháp tăng, như cây như đá không có tâm hồn, nên gọi là ngoại đạo và ác nhân. Còn những kẻ phủ nhận Phật tánh thì khác gì đầu gỗ. Là Bồ tát mà trước những kẻ như vậy nói đến giáo pháp và giới pháp của bảy đức Phật đà thì phạm tội khinh cấu.
Không phải lúc nào, ở đâu, với ai cũng thuyết Bồ tát giới một cách cẩu thả. Nhất là đối với những kẻ không có tâm hồn, những kẻ không có giống Phật, những kẻ ngoan cố, vô tín ngưỡng, nghe Bồ tát giới thì chỉ phỉ báng, không thể lãnh thọ mà cũng không chịu lãnh thọ. Còn đối với quốc vương, tức đối với các vị nguyên thủ quốc gia, thì không phải được nói mà là phải nói; địa vị ấy, quyền sinh sát ở cả trong tay, không cố mà nói cho họ, bằng cách này hay cách khác, về Bồ tát giới, thì không còn sự răn đe nào khác nữa.
Giới 39 nói phải diễn giảng Bồ tát giới trong mọi trường hợp, vậy tránh sao cho khỏi có những kẻ mà giới này hạn chế? Nên người diễn giảng phải xét người nghe, để có khi có thể diễn giảng đủ cả, có khi chỉ nên trích giảng mà thôi.
Giới pháp vĩ đại của hàng ngàn đức Phật, nói rõ là của 3 ngàn đức Phật thuộc 3 thời kỳ quá khứ hiện tại và vị lai. Ấy là lấy 3 ngàn đức Phật liên tiếp, gần gũi và của quốc độ này, trong đó có đức Bổn sư, mà nói sự trọng đại của Bồ tát giới. Của 7 đức Phật đà là lấy 7 đức Phật gần nhất trong số 3 ngàn đức Phật mà đức Bổn sư là vị Phật hiện tại, để nói sự trọng đại của Bồ tát giới. Như loài vật, 1 nhà giải thích nói vì không thọ Bồ tát giới thì sống cũng như chết chỉ là sống chết vô ích.
Số 43: Không Được Cố Tâm Phạm Giới
Phật tử nếu đã đem đức tin đại thừa mà xuất gia và lãnh thọ giới pháp chính yếu của chư Phật rồi, lại cố ý sinh tâm vi phạm giới pháp phát sinh tuệ giác vô lậu như vậy, thì không nên nhận mọi sự hiến cúng của thí chủ, không đáng đi đất của quốc gia, uống nước của quốc gia. Cả năm ngàn quỉ dữ thường án trước mặt kẻ ấy mà bảo với nhau, rằng đó là tên giặc lớn. Vào phòng ốc, thành thị, thôn ấp, nhà cửa, thì bọn quỉ thường quét dấu chân của người ấy đi. Thế nhân ai cũng nhục mạ, rằng đó là tên giặc trong Phật pháp. Chúng sinh không ai muốn nhìn. Kẻ phạm giới có khác gì loài vật, đầu gỗ. Nếu cố ý vi phạm giới pháp chính yếu của chư Phật thì phạm tội khinh cấu.
Hoặc là vô ý, hoặc là phiền não quá nặng mà phạm giới, thì dầu sao cũng còn hơn kẻ phạm giới bằng sự cố ý. Lại còn không sám hối mà nhận lãnh của tín đồ hiến cúng, thì đó là kẻ không còn chút tàm quí nào trong lòng. Kẻ ấy đất tuy rộng cũng không đáng có một chỗ để đi, nước tuy nhiều cũng không đáng có một giọt để uống. Đất của quốc gia, nước của quốc gia, quốc gia, chính văn là quốc vương, chữ này không những có nghĩa là vua mà còn chỉ cho tất cả nguyên thủ quốc gia dưới những danh từ khác nữa. Nói đất nước của nguyên thủ quốc gia là nói của quốc gia, của cả nước. Quỉ án trước mặt thì vì vậy mà họa không ít và phước khó toàn. 
Số 44: Không Được Không Trọng Kinh Luật
Phật tử thì thường phải nhất tâm mà thọ trì đọc tụng kinh luật đại thừa, lột da làm giấy, thích huyết làm mực, rút tủy làm nước, chẻ xương làm bút, để sao chép giới pháp của chư Phật. Lại sao chép mà giữ bằng giấy vỏ cây như giấy gió, giấy dạ, bằng lụa, lụa trắng, lụa tơ trần, bằng thẻ tre. Rồi thường đem bảy thứ quí báu, hay những thứ tạp ngọc vô giá, thơm và đẹp, làm hộp làm đãy mà tôn trí kinh luật đại thừa ấy. Nếu không hiến cúng đúng cách như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Kinh luật phải hiến cúng, phần chính vẫn là kinh luật đại thừa, tức Bồ tát giới Phạm võng. Hiến cúng bằng cách ấn hành mà truyền bá, trang sức mà thờ cất. Phật tánh nằm trong đó, nên phải hiến cúng như hiến cúng Phật. Lột da làm giấy, thích huyết làm mực, rút tủy làm nước, chẻ xương làm bút, là nói tinh thần vị pháp vong thân, không phải nói thực sự. Sao chép (thư tả) là xưa chỉ viết tay, chưa in. Nay thì in chứ không phải viết.
Số 45: Không Được Không Có Giáo Hóa
Phật tử thì tâm đại bi phải thường xuyên nổi dậy, khi vào những nơi thành thị, thôn ấp hay nhà cửa, thấy bất cứ ai cũng đều nói lên như thế này: các người nên lãnh thọ ba qui y và mười giới pháp. Nếu thấy tất cả cầm thú thì bất cứ bò ngựa heo dê, đều nên tâm nghĩ miệng nói như sau: cầm thú các con, các con nên phát Bồ đề tâm. Là Bồ tát thì đến bất cứ chỗ nào, dầu là núi non, rừng rú hay khe suối, đồng nội, cũng làm cho hết thảy chúng sinh phát Bồ đề tâm. Nếu Bồ tát mà không giáo hóa chúng sinh như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Chủ đích của sự giáo hóa là làm cho tất cả phát Bồ đề tâm. Cách giáo hóa mà giới này dạy chính là cái điển hình Thường bất khinh trong Pháp hoa. Cách này không mấy ai không cho là tầm thường, lố lăng, nên không mấy ai không phạm giới này. Nhưng cách này không những đem sức mạnh của tâm nguyện ảnh hưởng đến đối tượng, mà còn tự huân tập và hiện hành thường xuyên nơi bản thân về tâm đại bi. Lãnh thọ ba qui y và mười giới pháp là như truyền thọ Bồ tát giới rồi đó. Nhưng câu giới văn dạy nói lên khi gặp người thì không phải chỉ làm theo một cách máy móc và giản dị như vậy. Phải coi đó là đầu đề mà cách trình bày phải sao cho thích hợp, hiệu quả. Riêng câu giới văn dạy nói lên khi gặp vật thì làm theo dễ hơn: hãy luôn luôn chú nguyêển cho chúng như vậy. Nhưng phải chú ý chữ tâm nghĩ: phải vận dụng và tập trung tất cả sự chân thành của tâm đại bi mà chú nguyện. 
Số 46: Không Được Thuyết Không Đúng Phép
Phật tử thì thường đi giáo hóa với tâm niệm đại bi mà mình thường phát khởi. Nhưng, dẫu vào nhà tín đồ hay nhà quyền quí, đối với bất cứ tập thể nào, người xuất gia cũng không được đứng mà thuyết pháp cho người tại gia. Phải ngồi lên chỗ cao, ở trước mặt họ. Pháp sư Tỳ kheo thì dẫu thuyết pháp cho cả bốn chúng, cũng không được đứng đất mà nói. Khi thuyết pháp thì vị pháp sư phải được mời ngồi chỗ cao, hương hoa hiến cúng; còn bốn chúng thính giả thì ngồi chỗ thấp, bằng ý niệm như hiếu thuận đối với cha mẹ mà kính thuận những lời giáo huấn của vị pháp sư, lại kính thuận liên tục như các đạo sĩ thờ lửa giữ lửa không tắt. Nếu người thuyết pháp mà thuyết không đúng phép như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Thuyết không đúng phép là thuyết pháp không đúng nghi lễ thuyết pháp. Dẫu phải giáo hóa mọi người phát Bồ đề tâm, nhưng chính vì để họ quí trọng chánh pháp mà phát Bồ đề tâm, nên phải thuyết pháp cho đúng nghi lễ. Dầu thân như nhà tín đồ hay sang như nhà quyền quí, ở đâu cũng không được dễ dãi hay hạ mình, sao cũng nói được, bộc lộ tinh thần thị thường chánh pháp ngay khi chưa nói và khi đang nói. Như vậy thì phải ngồi, lại ngồi chỗ cao và trước mặt người nghe. Nhưng nếu trường hợp cũng theo nghi lễ, người nói phải đứng nói mới tôn nghiêm thì lại khác. Khi thuyết pháp thì vị pháp sư... giữ lửa không tắt, dịch sát thì như sau, dầu không đúng ý và việc: Nếu khi thuyết pháp, pháp sư ngồi cao, hương hoa hiến cúng; bốn chúng thính giả ngồi thấp như hiếu thuận cha mẹ, kính thuận lời thầy như Bà la môn thờ lửa. 
Số 47: Không Được Kềm Chế Phi Lý
Phật tử như quốc vương, thái tử, bách quan hay bốn bộ, đã đem đức tin đại thừa lãnh thọ giới pháp của chư Phật rồi, lại tự thị quyền quí cao sang mà phá hoại giáo pháp và giới pháp của Như Lai, bằng cách đặt ra qui chế để kềm chế bốn bộ đệ tử của Như Lai, không cho họ xuất gia, hành đạo, cũng không cho họ tạo lập hình tượng, chùa tháp, và truyền bá kinh luật. Lại đặt chức thống quản để chế ngự chư tăng, lập sách tịch để kiểm kê chư tăng. Tỳ kheo Bồ tát thì để cho đứng đất, bạch y cư sĩ lại tự ngồi chỗ cao, làm nhiều điều phi chánh pháp, tạo thành tình trạng như bắt binh nô thờ chủ. Nhưng Tỳ kheo Bồ tát chính là bậc để cho mọi người kính trọng, có đâu lại bị đem làm kẻ sai sử của quan quyền một cách trái với giáo pháp, trái với giới pháp. Nếu hàng quốc vương bách quan đã đem tâm lý tốt đẹp lãnh thọ giới pháp của chư Phật rồi, thì đừng làm những tội lỗi phá hoại Tam bảo như vậy. Nếu cố ý làm những biện pháp phá hoại Tam bảo thì phạm tội khinh cấu.
Giới này tự nói đã rõ, một cách không ngờ, về những sự kềm chế phi pháp, và đã mệnh danh những sự ấy là phá hoại Tam bảo. Một quốc độ mà cường quyền lấn áp đạo đức, buộc đạo đức và những người tiêu biểu cho đạo đức phải phục dịch mình bằng những qui chế phi lý, nhất là qui chế ấy có tính cách kềm chế, giám sát người và việc của một tôn giáo như Phật pháp, thì đó là "nước của quỉ la sát". Nhưng cường quyền ở đây, ngoài chính quyền mà chính sách căn bản không dung Phật pháp, còn là chính quyền mà cầm đầu hoặc nội bộ có những kẻ bất trung của Phật pháp, tự làm hoặc chịu làm tay sai, lợi dụng ngay sự làm Phật tử mà làm những việc hại đạo của Phật, thì đó là điều mà giới này muốn nói đến: nói đến Phật tử tại gia phản bội Phật pháp. Bốn bộ, bốn bộ đệ tử, ở đây là ưu bà tắc, ưu bà di, đồng nam, đồng nữ. Câu lại đặt chức thống quản... phá hoại Tam bảo như vậy, được biết có bản bị vua quan xưa đục bỏ.
Số 48: Không Được Phá Hoại Đạo Pháp
Phật tử nếu đã đem tâm lý tốt đẹp mà xuất gia rồi, lại vì danh vọng và quyền lợi nên trước mặt quốc vương và bách quan, nói về giới pháp của chư Phật mà lại nói một cách rất phi lý, làm cho các vị Tỳ kheo Tỳ kheo ni và những người thọ Bồ tát giới bị trói buộc bằng những hình thức lao tù, những biện pháp quân dịch. Như thế đó là con sâu trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, không phải con sâu ở ngoài: chính những kẻ Phật tử như trên tự phá Phật pháp, không phải ngoại đạo ma vương mà phá được. Nên người lãnh thọ giới pháp của chư Phật thì phải ái hộ giới pháp ấy như người mẹ thương đứa con một, như người con thờ cha mẹ, không được vi phạm. Là Bồ tát thì khi nghe cái tiếng của ngoại đạo và ác nhân đem lời nói ác phỉ báng phá hoại giới pháp của chư Phật, lúc ấy khác nào tim mình bị ba trăm mũi nhọn đâm vào, thân mình bị ngàn lưỡi dao vạn cây gậy đánh đập chém chặt. Thà là chính mình vào trong địa ngục cả trăm kiếp, chứ không muốn một lần phải nghe cái tiếng của kẻ ác đem lời ác phỉ báng phá hoại giới pháp của chư Phật, huống chi chính mình tự phá hoại giới pháp của chư Phật bằng cách tạo điều kiện khuyến khích kẻ khác phá hoại Phật pháp, không còn gì gọi là tâm hiếu thuận. Nếu cố ý làm như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Giới 47 phần nhiều nói Phật tử tại gia mà phản bội Phật pháp, giới 48 này phần nhiều nói sự phản bội ấy của Phật tử xuất gia. Sự phản bội tàn tệ nhất là chính mình giải thích giáo pháp và giới pháp, đem ngay sự giải thích ấy mà gây ra hay công nhận sự bị nguy khốn đày ải cho đồng đạo, nhất là đồng đạo xuất gia. Cường quyền, tay sai của ma vương hay chính ma vương hiện thân, phá hoại Phật pháp được là do hành động này tạo cơ hội hay tạo điều kiện. Trong kinh Thắng man, bà hoàng này bạch đức Thế Tôn, hằng sa đại nguyện đều nên nhập vào một đại nguyện, ấy là nguyện hộ trì chánh pháp. Hộ trì chánh pháp là đại nguyện cực kỳ lớn lao... Đức Thế Tôn dạy, Thắng man, đúng như vậy; chút ít của sự hộ trì chánh pháp cũng làm cho ma vương cả sợ. Như Lai không thấy có một việc thiện nào làm cho ma vương cả sợ bằng một chút của sự hộ trì chánh pháp (Chính 12/218). Câu bằng những hình thức lao tù, những biện pháp quân dịch, được biết có bản cũng bị đục bỏ.
Chín giới pháp nhẹ như vậy, các người phải học, phải cung kính phụng trì.
Kết thúc 9 giới nhẹ thứ hai. 
Đoạn 3: Kết Thúc 48 Giới Nhẹ Bồ tát Giới Phạm võng
Các Phật tử, bốn mươi tám giới pháp nhẹ như trên đây, các người hãy thọ trì như chư Bồ tát quá khứ đã tụng, chư Bồ tát vị lai sẽ tụng, chư Bồ tát hiện tại đang tụng.
Tổng kết 48 giới nhẹ đã nói bằng 3 lần 10 và 2 lần 9, tức kết thúc phần đẳng lưu của Bồ tát giới.

Tiết 3: Kết Thúc Và Khuyến Cáo Thọ Trì 
Bồ Tát Giới Phạn Võng
Mục 1: Kết Thúc Phần Bồ Tát Giới 
(Phần Giới Pháp Vô Tận)
Các Phật tử, hãy nghe cho kỷ Giới pháp gồm có mười điều nặng và bốn mươi tám điều nhẹ như trên đây, các đức Phật đà trong ba thì gian đã tụng sẽ tụng và đang tụng. Như lai nay cũng tụng y như vậy. Đại chúng các người, không cứ quốc vương, vương tử, bách quan, tỷ kheo, tỷ kheo ni, thiện nam, tín nữ, hễ lãnh thọ Bồ tát giới thì phải thọ trì, đọc, tụng, giảng thuyết và viết chép đối với cuốn kinh nói về giới pháp của Phật tánh thường trú, truyền bá cho chúng sinh trong tất cả thì gian, làm cho sự cảm hóa của giới pháp này được liên tục mãi, không bao giờ đứt đoạn. Như vậy thì các người sẽ được thấy ngàn đức Phật, đức Phật nào cũng trao tay cho, đời đời không sa vào đường dữ, tám nạn, thường sinh trong nhân loại hay chư thiên. Và như vậy là hôm nay, ở dưới cây bồ đề này, Như lai đã tóm tắt khai thị giới pháp của cả bảy đức Phật. Đại chúng các người hãy nhất tâm mà học giới pháp ấy, và hoan hỷ mà phụng hành, như Như lai đã nhất nhất khai thị phong phú trong phần Khuyến học của phẩm Vô tướng thiên vương. Bấy giờ ba ngàn người học tập Bồ tát đạo trong số thính giả hiện diện lúc ấy, nghe đức Thế tôn tự tụng lại giới pháp như vậy, ai cũng tâm tâm kính thuận, hoan hỷ phấn chấn mà thọ trì.
Đây là kết thúc về toàn thể Bồ tát giới Phạn võng, tức kết thúc phần Giới pháp vô tận trong phẩm Pháp môn tâm địa. Kết thúc bằng cách khuyên thực hành 5 pháp hạnh đối với giới pháp ấy, và nói về kết quả của 5 pháp hạnh này. Về 5 pháp hạnh, thọ trì là tiếp nhận ghi nhớ, đọc là đọc xét văn nghĩa, tụng là tụng được thuộc lòng, giảng thuyết là giảng nói cho người, viết chép là sao chép ấn hành. Nhưng thọ trì còn có nghĩa tiếp nhận kính giữ, vì chữ trì nghĩa là giữ cho còn trong trí, giữ cho còn giữa đời. Giảng nói cho người, trước hết còn là giới thiệu, loan báo cho người biết về Bồ tát giới Phạn võng. Và 5 pháp hạnh trên đây cũng còn bao gồm các pháp hạnh chánh ức niệm (nhớ nghĩ chính xác), giải nghĩa thú (lý giải ý nghĩa), như thuyết hành (làm đúng kinh dạy).
Thực hành 5 pháp hạnh thì Bồ tát giới sẽ tồn tại lâu dài và rộng rãi, do đó mà người thực hành được kết quả là thấy ngàn đức Phật, và khi lâm chung thì thấy ngàn đức Phật trao tay cho. Pháp hoa cũng có kết quả này. Được thấy ngàn đức Phật là như người niệm Phật, lúc gần lâm chung, đức A di đà phật và vô số chư Phật hóa thân, cùng với Thánh chúng hiện ra trước mắt của họ. Khi lâm chung được ngàn đức Phật trao tay cho là như người niệm Phật thì khi lâm chung thân không bịnh khổ, tâm không lưu luyến, ý không thác loạn, y như nhập định, đức A di đà phật cùng vô số đức Phật hóa thân và Thánh chúng bưng đài kim cang, đưa tay đón dắt. Thường sinh trong nhân loại hay chư thiên, nói cách khác thì như Đại bát nhã đã nói "từ nước Phật này sinh ở nước Phật khác" - tức như người niệm Phật tuy ở trong thế giới ngũ trược này mà cũng như ở trong thế giới Cực lạc, và chết rồi sinh ra ở thế giới này hay ở thế giới nào cũng như ở trong thế giới Cực lạc ấy.
Trọn đoạn văn mục này là trả lời 2 câu hỏi: kính giữ Bồ tát giới bằng cách nào ? kính giữ Bồ tát giới thì khi chết sẽ thế nào, chết rồi sinh ra ở đâu?
Ba ngàn người học tập Bồ tát đạo ... phấn chấn mà thọ trì, 3.000 ở đây chỉ là một số trong đại hội mà thọ trì Bồ tát giới Phạn võng ngay khi Phật thuyết xong giới ấy. Thọ trì ở đây không phải chỉ là nghe nhớ: tiếp nhận nắm giữ cho còn trong trí, cũng không phải chỉ là truyền bá: tiếp nhận nắm giữ cho còn trong đời, mà chính yếu là thọ trì Bồ tát giới Phạn võng: tiếp nhận giữ gìn giới ấy cho thật nghiêm cẩn. Và đó là cách thượng phẩm thọ Bồ tát giới Phạn võng. Kinh Anh lạc nói thọ Bồ tát giới có 3 cách: đối trước Phâểt đà hay Bồ tát mà thọ là thượng phẩm, đối trước vị pháp sư thọ trước mình mà thọ là trung phẩm, nếu trong vòng ngàn dặm không có vị pháp sư ấy nên đối trước tượng Phật đà và Bồ tát mà thọ là hạ phẩm (Chính 24/1020).

Mục 2: Kết Thúc Phẩm Bồ Tát Tâm Địa Giới
(Phẩm Pháp Môn Tâm Địa)
Bấy giờ đức Thích ca mâu ni nói xong phần Giới pháp vô tận trong phẩm Pháp môn tâm địa của đức bản thân Lô xá na ở Hoa tạng thế giới đã nói, thì một ngàn và một ngàn lần trăm ức đức Thích ca khác cũng nói y như vậy. Sự từ cung Đại tự tại thiên vương xuống đến cây bồ đề, trải qua mười chỗ thuyết các pháp phẩm cho hết thảy Bồ tát, và cho đại chúng nhiều đến số lượng không thể nói hết, được thọ trì, đọc tụng và giảng nói, cũng như nhau. Nói tóm, một ngàn và một ngàn lần trăm ức thế giới, Hoa tạng thế giới, và các Hoa tạng thế giới khác nhiều như vi trần, cũng diễn về tất cả kho tàng chánh pháp của chư Phật là kho tàng tâm, kho tàng địa, kho tàng giới, kho tàng vô lượng hạnh nguyện, kho tàng nhân quả Phật tánh thường trú. Và như vậy là chư Phật đã nói hoàn tất về tất cả kho tàng chánh pháp. Hết thảy chúng sinh trong một ngàn và một ngàn lần trăm ức thế giới đều thọ trì, hoan hỷ và phụng hành. Nếu khai thị một cách rộng lớn các nghĩa tướng của tâm địa thì phải như trong phẩm Phật hoa quang vương đã nói.
Đây là kết thúc phẩm Pháp môn tâm địa mà trong đó có phần Giới pháp vô tận, tức là kết thúc trọn phẩm thứ 10 của kinh Phạn võng. Phần Giới pháp vô tận, chính văn là thập vô tận giới phẩm, phẩm ở đây là phần, là phần dưới của phẩm Pháp môn tâm địa; 10 giới pháp vô tận hay Giới pháp vô tận là 10 giới nặng, và như đã nói, nói 10 giới ấy là nói về Bồ tát giới. Các pháp phẩm là nội dung của 10 chỗ thuyết pháp đã kê trong số 2 mục 1 của Tiết 1. Nhưng 10 chỗ ấy đáng lẽ phải nói tắt rằng từ dưới cây bồ đề lên đến cung Đại tự tại thiên vương; nói từ cung Đại tự tại thiên vương xuống đến cây bồ đề là nói ngược thứ tự một chút. Nội dung 10 chỗ thuyết pháp ở đây: tâm là 30 tâm, địa là 10 địa, và cả 2 là nói về Bồ tát vị; giới là 10 giới nặng và 48 giới nhẹ, là nói về Bồ tát giới; vô lượng hạnh nguyện là nói về các Bồ tát hạnh và Bồ tát vị khác mà 10 chỗ thuyết pháp cũng đã kê; nhân quả Phật tánh thường trú thì 4 kho tàng trên là nhân, pháp thân là quả. Các Hoa tạng thế giới khác nhiều như vi trần là dịch rõ chính văn vi trần thế giới. Chúng sinh trong 1 ngàn và 1 ngàn lần trăm ức thế giới đều thọ trì, hoan hỷ và phụng hành, là nói chúng sinh thuộc Hoa tạng thế giới này để làm điển hình. Phật hoa quang vương, có bản chép thêm: 7 hạnh của Phật hoa quang vương.

Mục 3: Phụ Lục Kết Thúc Phần Bồ Tát Giới Bằng Thể Chỉnh Cú
Mục này dĩ nhiên không thể cho là chính văn của Bồ tát Phạn võng như có nhà chú thích cho như vậy. Có thể nguyên thỉ tụng Bồ tát giới Phạn võng chỉ có bài tựa mở đầu và bài văn chỉnh cú này làm lời mở và lời kết. Văn và ý của mục chỉnh cú này kết hợp văn và ý của luận Du dà và luận Trung quán. Do vậy, chỉ nên gọi là phụ lục mà thôi. Tuy nhiên, mục chỉnh cú này thật đặc biệt, nói đến căn bản quan trọng của Bồ tát giới là thật tướng bát nhã. Thật tướng bát nhã là ánh sáng giới pháp mà đoạn 2 mục 3 của tiết 1 đã nói. Thật tướng bát nhã ấy là tư tưởng căn bản của dịch chủ La thập.
Mục này có 3 đoạn: đoạn 1 nói về yếu tố và hiệu quả của Bồ tát giới, đoạn 2 nói về căn bản thật tướng bát nhã của Bồ tát giới, đoạn 3 khuyến cáo và hướng nguyện về Bồ tát giới.

Đoạn 1: Nói Về Yếu Tố Và Hiệu Quả Của Bồ Tát Giới
Những người thông minh thật
thì đức tính nhẫn nhịn
và khả năng tuệ giác
cả hai đều mạnh mẽ.
Nhờ đó thọ trì được
giới pháp Bồ tát này,
từ nay đến thành Phật
thường được năm lợi ích:
Một là được chư Phật
thương tưởng hộ trì luôn.
Hai là khi lâm chung
chánh kiến, tâm hoan hỷ.
Ba là sinh chỗ nào
cũng làm bạn Bồ tát.
Bốn là công đức tụ
giới độ thành tựu cả.
Năm là trong đời này
và các đời sau nữa
đủ cả phước và tuệ
của giới pháp tự tánh.
Đoạn này lấy văn ý luận Du dà, nói về yếu tố và hiệu quả của sự thọ trì Bồ tát giới. Yếu tố ấy là đức tính nhẫn nhịn và khả năng tuệ giác. Còn hiệu quả ấy là 5 lợi ích mà luận Du dà nói rõ hơn: Cho đến chưa chứng vô thượng bồ đề, nhờ nỗ lực tu tập một cách chính xác đối với vô lượng Bồ tát giới, nên thường được 5 lợi ích vượt bậc. Một là thường được mười phương chư Phật giữ gìn. Hai là khi sắp bỏ thân mạng thì lòng rất hoan hỷ. Ba là sau khi thân mạng kết thúc, sinh ra chỗ nào cũng thường cùng các vị Bồ tát giới hạnh thanh tịnh hoặc bằng hoặc hơn mình làm đồng phận, đồng pháp hữu và thiện tri thức. Bốn là thành tựu kho tàng vô lượng công đức to lớn, có thể viên mãn tịnh giới ba la mật. Năm là đời này và các đời sau thường thành tựu được tịnh giới của tự tánh, tịnh giới thành ra cá tính (Chính 30/522). Những lợi ích này cho thấy thọ trì Bồ tát giới thì ở đâu cũng là nước Phật.
Sau đây là mấy từ ngữ cần chú thích. Chánh kiến, ở đây, khi sắp chết, là như người niệm Phật thì khi ấy tâm trí không hôn mê, thác loạn, thấy Phật đưa tay đón dắt. Công đức tụ: cái đống công đức. Giới độ: tịnh giới ba la mật.

Đoạn 2: Nói Về Căn Bản Thật Tướng Bát Nhã Của Bồ Tát Giới
Giới pháp như thế này
là sở hành của Phật,
với chỗ sở hành ấy
trí giả hãy khéo nghĩ:
Tâm hạnh như ngoại đạo
trước tướng và chấp ngã,
thì giới pháp như vầy
không thể nào tín thọ.
Tuệ giác của Thanh văn
diệt tận chứng niết bàn,
cũng không phải là chỗ
gieo giống giới pháp này.
Muốn nuôi lớn mầm mống
lúa tuệ giác bồ đề
để ánh sáng tuệ ấy
chiếu tỏa cả thế gian,
thì cần phải thường xuyên
yên tịnh tâm trí mình
mà quán sát thật tướng
của tất cả các pháp
siêu việt mọi khái niệm
đối lập nhau như sau:
phát sinh với tiêu diệt
vĩnh cửu với hư vô
đồng nhất với mâu thuẫn
xuất hiện với biệt dạng.
Bằng sự quán sát ấy
nỗ lực mà trang hoàng:
việc Bồ tát phải làm,
phải tuần tự học tập.
Với tất cả các vị
tu học còn tiếp tục
tu học đã hoàn tất
đừng sinh tâm phân biệt,
thì đó: đệ nhất nghĩa,
ũng gọi là đại thừa.
Mọi hý luận lầm lỗi
đều bặt dấu ở đây,
và từ đây xuất phát
trí toàn giác của Phật.
Đoạn này lấy văn ý của Trung luận, của Bát nhã, và của chính Phạn võng (đoạn 2 mục 3 tiết 1). Giới pháp như thế này là sở hành của Phật, chính văn là thử thị Phật hành xứ, một số bản chép thử thị chư Phật tử, chép như vậy là sai đến nỗi rất đáng ngạc nhiên. Sở hành của Phật là cái của Phật biết và Phật làm. Sở hành ấy chính là thật tướng bát nhã, Bồ tát giới xuất phát từ căn bản ấy. Tâm hạnh như ngoại đạo ... gieo giống giới pháp này là nói Bồ tát giới thì ngoại đạo và nhị thừa không kham thọ trì. Nhưng nói như vậy chỉ để đề cao Bồ tát giới, và là nói trong 1 lúc nên đối với Bồ tát giới có người có thể thọ trì, có người không thể thọ trì, còn nói trong nhiều lúc thì lúc này có người còn không thể mà lúc khác người ấy đã có thể, do vậy nên nói ai cũng có thể thọ trì Bồ tát giới và trở thành Phật đà, đó mới là tư tưởng chính yếu của Bồ tát giới Phạn võng. Muốn nuôi lớn mầm mống ... của tất cả các pháp : Tuệ giác bồ đề là thật tướng bát nhã: tuệ giác thể nhập thật tướng của các pháp. Mầm mống của tuệ giác bồ đề thì chính là tuệ tâm sở trong 5 tâm sở biệt cảnh; sử dụng tâm sở này thì tập quán sát được về thật tướng. Siêu việt mọi khái niệm ... xuất hiện với biệt dạng: Thật tướng là gì? là bản chất thật: bản chất siêu việt mọi khái niệm mà thực chất chỉ là đối lập nhau mà hình thành. Mọi khái niệm ấy, ở đây đưa ra 4 phạm trù thành 8 khái niệm để làm tiêu biểu. Tất cả 6 câu này nếu dịch sát chính văn đến gần như không dịch thì phải là không sinh với không diệt, không thường với không đoạn, không nhất với không dị, không lai với không khứ. Bằng sự quán sát ấy, nỗ lực mà trang hoàng: việc Bồ tát phải làm, phải tuần tự học tập : Bằng sự quán sát ấy, chính văn là như thị nhất tâm trung, nhất tâm là sự quán sát thật tướng, chỉ lấy thật tướng làm chủ đề duy nhất (chứ chưa thể nói là đồng nhất với thật tướng). Nỗ lực mà trang hoàng, trang hoàng (trang nghiêm) là nói tắt, nói đủ là trang hoàng quốc độ bằng cách giáo hóa chúng sinh (thành ngữ: trang nghiêm quốc độ, thành thục chúng sinh). Và đó là việc phải làm của Bồ tát. Việc phải làm ấy - mà chính yếu là Bồ tát giới - là xuất phát từ thật tướng bát nhã. Nên người thọ Bồ tát giới thì, với sự quán sát thật tướng bát nhã, phải nỗ lực mà học và hành. Với tất cả các vị ... cũng gọi là đại thừa: Tu học còn tiếp tục là hữu học, tu học đã hoàn tất là vô học. Đối với các vị ấy - mà người thọ Bồ tát giới sống với - người thọ Bồ tát giới không phân biệt để khinh trọng, thì đó là một bước biểu hiện của bát nhã. Hý luận lầm lỗi, hý luận ở đây là hết thảy tư duy và mô tả theo các phạm trù đối lập nhau; đối với thật tướng bát nhã thì tư duy mô tả như vậy đã là hý luận, mà là hý luận lầm lỗi. Trí toàn giác của Phật, trí toàn giác, chính văn là tát bà nhã.

Đoạn 3: Khuyến Cáo Và Hướng Nguyện Về Bồ Tát Giới
Thế nên các Phật tử
hãy nổi đại dũng mãnh:
đối với giới của Phật
giữ như giữ ngọc sáng.
Các Bồ tát quá khứ
đã học về giới ấy,
vị lai thì sẽ học,
như hiện tại đang học.
Giới ấy chư Phật làm,
giới ấy chư Phật khen,
và tôi hôm nay đây
đã kính theo chư Phật
mà tụng lại giới pháp
phước đức vô lượng ấy
hồi hướng cho chúng sinh
để cùng nhau xoay về
trí toàn giác của Phật,
cầu nguyện cho các vị
được nghe giới pháp này
chóng thành đạt trí Phật.
Và tôi hôm nay đây, tôi là vị tụng giới tự xưng. Mà tụng lại giới pháp phước đức vô lượng ấy, chính văn là thuyết phước đức vô lượng tụ, có người hiểu là nói về giới pháp, sự nói ấy được vô lượng phước đức; nay xét phước đức vô lượng tụ - mà ở trên nói là công đức tụ - nghĩa đen là cái đống phước đức vô lượng, cái đống ấy chính là giới pháp Bồ tát của Phạn võng.
Kính lạy đức Lô xá na như lai. Kính lạy đức Thích ca mâu ni như lai. Kính lạy kho tàng Bồ tát giới Phạn võng.
Cả 3 danh hiệu này là của nghi thức tụng giới. Vị tụng giới niệm 3 danh hiệu này trước khi nói lời tác bạch cuối cùng.

IV)- Thức xoa ma na Ni Giới
Hòa Thượng Thích Trí Quang dịch giải
Mục lục
Ghi Sau Khi Duyệt Thức Xoa Ma Na Ni Giới
Lời Nói Đầu
Tựa
Giới Bản Thức Xoa Ma Na Ni
1/ Một, Học Căn Bản
2/ Hai, Học 6 Pháp
3/ Ba, Học Hành Pháp
4/ Cách Sám Hối 292 Hành Pháp

Ghi Sau Khi Duyệt Thức xoa ma na Ni Giới
Xin ghi rõ ở đây về chính văn mà tôi căn cứ để dịch Thức xoa ma na ni giới. Chính văn ấy có tên là Thức xoa ma na ni giới bản, nằm trong Tục tạng kinh bản chữ Vạn, tập 64, các trang 97 104. Trong lời nói đầu tôi đã quên ghi như vậy.
Kế đến, chính ở Thức xoa ma na ni giới này mà những lời nguyên chú của tác giả đem lại cho ta một số hiểu biết hơn về Tỳ kheo giới, nhất là Tỳ kheo ni giới.
Mười hai tháng 5, 2537.
Trí Quang

Lời Nói Đầu
Phật không tự động chế ra giới điều. Mỗi giới điều là do một trường hợp. Trường hợp nhiều khi khác nhau mà giới điều không khác. Nên thật ra giới điều có thể qui nạp lại được. Tức như cái số 292 của Thức xoa giới có thể qui nạp còn quá nửa mà thôi.
Thế nhưng giới điều nhiều đến mấy đi nữa, chỉ cần thiểu dục tri túc đi đôi với tàm quí là giữ được trọn vẹn.
Nếu gặp nghịch cảnh, to lớn cũng như vụn vặt, thì nên niệm Phật. Nên đi như Phật đi, đứng như Phật đứng, nhìn như Phật nhìn, nói như Phật nói (Đại ái đạo, chính 24/951).
Thức xoa cũng được Phật gọi là người con gái của dòng họ Thích. Thức xoa hãy làm cho tiếng gọi ấy linh thiêng suốt đời mình, đừng bao giờ để tiếng gọi ấy biến thành mỉa mai.
Mồng 7 tháng 6, 2535 (1991)
Trí Quang

Tựa
Giáo dục thế gian thì lễ nghi đi trước, qui tắc xuất thế thì giới luật đứng đầu. Phi lễ nghi thì không có gì để trở thành hiền trí, có giới luật thì mới có thể đi mau đến Bồ đề. Thế nên đại kinh đã dạy giới là thang là thuyền của hết thảy đạo quả, cũng là rễ là gốc của tất cả thiện báo. Nếu không giữ giới luật thì làm sao sẽ thấy Phật tánh. Chúng sinh tuy có Phật tánh, nhưng phải giữ giới thì sau đó mới thấy. Thấy Phật tánh mới thành Vô thượng Bồ đề.
Vì lý do ấy mà đại thừa tiểu thừa cùng thọ giới pháp, 5 chúng xuất gia cùng tuân giới luật. Nhưng thời này là mạt pháp, người ta đa số ưa lãnh thọ mà bỏ chấp trì, bước lên phẩm bậc của giới pháp mà rồi biến phẩm bậc ấy thành ra cái phao rách nát trong biển khổ. Cũng có kẻ đem cái tuệ cuồng si mà nói lếu láo về Bát nhã, khinh chê Tỳ ni, làm cho những kẻ ngu ngơ bắt chước, những người đi sau mất cả cửa ngõ.
Như Lai hóa đạo cho mọi căn cơ, giáo pháp thì thiết 3 thừa, giới pháp thì lập 5 chúng. Riêng nữ giới căn tánh hơi chậm, phiền não lại dày, nên đức Như Lai chế định 6 pháp, dạy họ phải 2 năm học trước mọi giới pháp và oai nghi của đại ni; khi giới thể tuần tự thành tựu mới cho phép lãnh thọ cụ túc giới. Tuy chế định như vậy, nhưng chỗ dựa của họ phải lấy bậc đại ni rành luật mà làm thầy. Có điều bậc đại ni ấy lại không được phép nói cho cái tên của 5 thiên 7 tụ, chỉ được phép nói cho các giới pháp và oai nghi về bất dâm, bất đạo, và những giới điều đồng đẳng.
Điều đáng than là mạt pháp ít gặp đại ni, biết luật càng ít. Như vậy họ đã không được trực tiếp giáo thọ, lại không được đọc đến giới văn, không còn do đâu để biết thế nào là giữ giới, thế nào là phạm giới; giả sử có cái chí hướng thượng cũng không có cái chỗ để đặt chân.
Do vậy, tôi kê cứu các luật bản, biên tập giới pháp mà họ phải học. Để những kẻ có tàm quí, muốn học giới, có thể học mà tập theo thì gian.
Niên hiệu Thuận trị, năm canh dần, tháng đầu mùa hạ, sa môn đại Bồ đề tâm Hoằng tán ghi.

Giới Bản Thức xoa ma na Ni (xuất từ bộ Đàm Vô Đức)
Biên tập: Quảng Châu, Nam Hải, rừng Bảo Tượng, Sa Môn Hoằng Tán Tại Sâm.
Thức xoa ma na ni, Phạn tự này Hoa văn dịch nghĩa là học pháp nữ. Là trong 2 năm phải học đủ 3 pháp:
một, học căn bản, là 4 trọng giới;
hai, học 6 pháp, là những pháp được bởi Yết ma;
ba, học hành pháp, là mọi giới pháp và oai nghi của đại Tỳ kheo ni.
Nay đây y theo Tứ phần luật kê ra 3 pháp nói trên để tiện cho họ học tập mà lãnh thọ đại giới.

1/ Một, Học Căn Bản (tổng cộng có 4 sự)
1. Không được làm điều bất tịnh, làm sự dâm dục. Nếu Thức xoa ma na làm sự dâm dục, đến nỗi cùng với súc sinh, thì không phải Thức xoa ma na, không phải con gái dòng họ Thích, vì đó là phạm trọng tội.
2. Không được trộm cắp, dầu chỉ một lá cỏ. Nếu Thức xoa ma na trộm lấy của người 5 tiền hay hơn 5 tiền, tự lấy hay bảo người lấy, tự làm đứt hay bảo người làm đứt, tự làm vỡ hay bảo người làm vỡ, hoặc đốt, hoặc chôn, hoặc phá hủy màu sắc, thì không phải Thức xoa ma na, không phải con gái dòng họ Thích, vì đó là phạm trọng tội. (Đứt là chặt đồng tiền đứt ra làm hai. Vỡ là đập đồng tiền vỡ ra. Đốt, chôn, phá hủy, đều là làm cho màu sắc và hình dáng đồng tiền biến dạng. Năm tiền là 5 tiền lớn, 1 tiền lớn bằng 16 tiền nhỏ; lấy 5 tiền hay đồ vật trị giá 5 tiền thì phạm trọng tội cả). (1)
3. Không được cố ý làm đứt mất sinh mạng chúng sinh, dầu nhỏ như loài kiến. Nếu Thức xoa ma na cố ý tự tay giết chết mạng người, hoặc cầm dao trao cho người, bảo chết, khen chết, cho thuốc bậy, làm sẩy thai, van vái, bùa chú, tự làm những cách ấy hay bảo người làm, thì không phải Thức xoa ma na, không phải con gái dòng họ Thích, vì đó là phạm trọng tội. (Khen là khen ngợi làm cho người ta chết. Thuốc bậy là thuốc độc; hoặc người bịnh mà cho thuốc không đúng, làm cho họ chết. Van vái là van vái quỉ thần ác. Bùa chú là dùng bùa chú ác).
4. Không được nói dối, dầu chỉ giỡn chơi. Nếu Thức xoa ma na không thật thà, không phải đã có mà tự xưng được pháp thượng nhân, được thiền, được giải thoát, được tam muội, được chánh thọ, được đạo quả Tu đà hoàn cho đến được đạo quả A la hán, trời đến, rồng đến, quỉ thần đến cúng dường tôi, thì không phải Thức xoa ma na, không phải con gái dòng họ Thích, vì đó là phạm trọng tội. (Giải thoát là 8 giải thoát. Tam muội, Hoa dịch chánh định. Tu đà hoàn, Hoa dịch nhập lưu, là nhập vào dòng thánh nhân. A la hán, Hoa dịch vô trước, cũng dịch vô sinh, vì giải thoát sinh tử trong 3 cõi).
Bốn giới nặng trên đây hễ phạm 1 giới thì phải bị trục xuất liền, sau đó không được thọ giới Tỳ kheo ni, cũng không được trở lại làm Thức xoa ma na, làm Sa di ni hay làm ưu bà di. Nếu do thầy mà gượng thọ lại thì cũng không đắc giới, vẫn bị trọng tội, và lãnh thọ cái gì của tín thí cũng gọi là phạm tội ăn trộm.

2/ Hai, Học 6 Pháp (chính thức có 6 sự)
1. Nếu Thức xoa ma na thân thể xoa chạm với thân thể người nam có tâm ô nhiễm, thì phạm giới, phải thọ giới lại, (Tâm ô nhiễm là muốn dâm dục).
2. Nếu Thức xoa ma na với ý thức trộm cắp mà lấy dưới 5 tiền, thì phạm giới, phải thọ giới lại. (Dưới 5 tiền là 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 4 tiền).
3. Nếu Thức xoa ma na giết chết sinh mạng của súc sinh không thể biến hóa, thì phạm giới, phải thọ giới lại. (Không thể biến hóa là súc sinh không thể biến thể làm hình người, hình trời, hình rồng, hình quỉ thần, v.v.... Súc sinh là cho đến côn trùng nhỏ nhất cũng gọi là súc sinh).
4. Nếu Thức xoa ma na cố ý vọng ngữ đối với tăng chúng, thì phạm giới, phải thọ giới lại. (Ở đây vọng ngữ là nói dối loại nhỏ).
5. Nếu Thức xoa ma na ăn phi thời, thì phạm giới, phải thọ giới lại. (Sau đứng bóng ngày nay đến trời chưa sáng ngày mai, gọi là phi thời).
6. Nếu Thức xoa ma na uống rượu, thì phạm giới, phải thọ giới lại.
Sáu pháp trên đây nếu phạm 1 pháp thì gọi là thiếu giới. Phải làm Yết ma cho 2 năm khác. Thức xoa ma na thiếu giới ấy phải bắt đầu học tập lại. Nếu học tập lại không đủ 2 năm thì không được lãnh thọ đại giới.

3/ Ba, Học Hành Pháp (tổng cộng 292 pháp)
Phật dạy Thức xoa ma na phải học cho biết và tập làm theo tất cả giới pháp của đại ni, trừ sự tự lấy thức ăn, trao thức ăn, cho thức ăn. Tăng kỳ luật qui định Thức xoa ma na nhận thức ăn từ nơi Sa di ni).
1. Không được đem tâm ô nhiễm chịu cho người nam cũng có tâm ô nhiễm nắm tay, nắm y, vào chỗ khuất, đứng chung, nói chung, đi chung, thân thể dựa nhau, hoặc hẹn hò với nhau. (Chỗ khuất là chỗ người khác không thấy không nghe). (2)
2. Không được che giấu tội lỗi người khác. Nếu biết người khác có tội lỗi mà mình không tự cử tội, không bạch chư tăng, không nói với người; sau đó, vào thì gian khác, người có tội lỗi bị mạng chung, bị trục xuất, hoặc thôi tu, v.v..., mới nói như vầy, trước đây tôi biết người ấy có việc như vậy như vậy, thì đó là che giấu trọng tội cho người khác.
3. Nếu biết Tỳ kheo cho đến người giữ vườn, Sa di, bị chư tăng cử tội đúng giáo pháp, đúng giới luật, đúng Phật huấn dụ, mà không phục tùng, không sám hối, và chư tăng cũng chưa tác pháp Yết ma cho sống chung, vậy mà mình tùy tùng với họ. Khi Tỳ kheo ni và Thức xoa ma na khác can gián thì phải từ bỏ, không được không từ bỏ. (Tùy tùng là tùy tùng lời họ mà trao kinh sách hay cho áo cơm).
4. Không được làm mai mối, đem ý người nam nói với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, để thành vợ chồng hay tư thông dầu chỉ trong chốc lát.
5. Không được vì giận dữ không vui mà, một cách vô căn cứ, phỉ báng người khác phạm trọng tội, ý muốn phá hoại sự thanh tịnh của người ấy. (Vô căn cứ là không thấy không nghe và không nghi người ta phạm tội, mà lại cố ý nói để phỉ báng).
6. Không được vì giận dữ không vui, lấy một khía cạnh trong việc khác, một cách vô căn cứ mà phỉ báng người khác, ý muốn phá hoại phạm hạnh của người ấy. (Việc khác là trọng tội. Lấy một khía cạnh là lấy lỗi nhỏ trong trọng tội để phỉ báng người ta phạm trọng tội ấy).
7. Không được đến cửa quan, dầu chỉ trong chốc lát, thưa cư sĩ hay con cư sĩ, thưa tôi tớ hay người làm thuê. (Đến cửa quan là đem việc báo cáo với quan. Nếu bị người khinh khi, lăng nhục, thì nên nói với cha mẹ hay bà con của họ, với Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, với cận sự nam hay cận sự nữ, để những người này can gián họ. Làm thuê là người chịu thuê làm việc).
8. Nếu biết trước là nữ tặc, có tội đáng chết, và ai cũng biết, vậy nếu không hỏi vua hay đại thần của vua, không hỏi đến thành phần xã hội của họ, thì không được độ ngay cho họ xuất gia. (Thức xoa ma na tuy không có phép có đồ đệ, nhưng phải học trước việc này).
9. Không được một mình lội nước, một mình vào làng xóm, một mình ngủ lại, một mình đi sau. (Một mình ngủ lại là ngủ lại một mình nơi nhà thế tục ở trong làng xóm).
10. Nếu biết người nam có tâm ô nhiễm thì không được từ nơi người ấy nhận lấy thức ăn và những vật khác.
11. Không được bảo người khác từ nơi người ấy nhận lấy thức ăn và những vật khác.
12. Không được phá hoại tăng hòa hợp, và được can gián mà không từ bỏ.
13. Không được làm phe cánh với kẻ phá hoại tăng hòa hợp, và được can gián mà không từ bỏ.
14. Nếu ở trong thành thị hay thôn xóm mà làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, thì chư tăng trục xuất, không được không phục tùng. (Hoen ố tín đồ là đem đồ vật tặng cho cư sĩ. Làm những việc xấu là trồng các thứ hoa quả, tưới nước hái trái, cho đến cùng người lớn hay cùng trẻ con ngồi chung giường, ăn chung bát, ca múa, đánh thổi, chịu thuê, giỡn cợt, v.v...).
15. Không được ngoan cố không chịu nghe ai nói. Khi được can gián thì phải từ bỏ.
16. Không được người này người kia sống gần gũi nhau, cùng nhau làm những điều bất thiện, tiếng xấu lan tràn, triển chuyển che giấu tội lỗi cho nhau, và được can gián mà không từ bỏ. (Gần gũi là luôn luôn giỡn cười với nhau, bỡn cợt với nhau).
17. Nếu ai bị chư tăng tác pháp Yết ma sống riêng hay bị khiển trách răn đe, thì không được chỉ bày cho họ, rằng đừng chịu sống riêng, hãy cứ sống chung; tôi thấy có những người khác không chịu sống riêng, cùng nhau làm những điều bất thiện, tiếng xấu lan tràn, che giấu tội lỗi cho nhau. Chư tăng chỉ vì tức giận nên bảo cô sống riêng mà thôi. Chỉ bày như vậy là phỉ báng chư tăng, nên khi được can gián thì phải từ bỏ.
18. Không được vội vã vì một việc nhỏ mà tức giận không vui, nói liền rằng tôi bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, không phải chỉ có sa môn Thích tử mà còn có sa môn bà la môn khác tu tập phạm hạnh, tôi cũng có thể tu tập phạm hạnh nơi họ. Nói như thế mà được chư tăng can gián thì phải từ bỏ.
19. Không được ưa tranh cãi vì không khéo nhớ sự việc tranh cãi, chư tăng phê phán thì nói chư tăng có tham có sân có si có sợ; nói mà được can gián cũng không từ bỏ.
20. Không được cất giữ trường y (3) quá 10 ngày mà không tịnh thí. (Tịnh thí có 2. Một là tịnh thí thật sự, là thật sự cho người. Hai là tịnh thí triển chuyển, là tác pháp Yết ma rồi mình tự cất giữ).
21. Không được rời y mà ngủ chỗ khác, dầu chỉ trải qua 1 đêm.
22. Không được xin y nơi cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải bà con; nếu y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, thì được xin.
23. Nếu y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, mà cư sĩ hay vợ cư sĩ xin tùy ý (4) và cúng nhiều y, thì phải nhận một cách biết vừa đủ, không được quá đáng.
24. Nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ sắm tiền mua y, muốn mua y cúng cho, nhưng Thức xoa ma na trước chưa nhận lời xin tùy ý, thì không được vì muốn có y tốt nên đến nhà họ mà khen ngợi để đòi y.
25. Nếu có 2 cư sĩ và vợ 2 cư sĩ sắm tiền mua y, muốn mua y cúng cho, nhưng Thức xoa ma na trước chưa nhận lời xin tùy ý, thì không được vì muốn có y tốt mà đến nhà 2 cư sĩ, khen ngợi, khuyên họ chung tiền lại sắm 1 y. (Chưa nhận lời xin tùy ý là Thức xoa ma na chưa nhận được lời 2 cư sĩ xin tùy ý đến nhà họ mà yêu sách y).
26. Nếu thí chủ phái người đến đưa tiền sắm y cho Thức xoa ma na, nhưng Thức xoa ma na vì không được nắm giữ tiền ấy nên không nhận lãnh. Người được phái đem tiền ấy giao cho người giúp việc rồi về. Khi Thức xoa ma na cần y thì nên hai ba lần đến chỗ người giúp việc mà nói tôi cần y. Nói như vậy mà không được y thì bốn năm sáu lần đến đứng yên lặng trước người giúp việc, và được y thì tốt. Nếu vẫn không được y thì không được quá số ấy mà đến đòi y. Phải nói cho thí chủ biết mình không nhận được y để họ lấy lại tiền sắm y, đừng để mất đi.
27. Không được tự tay cầm lấy vàng bạc và tiền, hoặc bảo người khác cầm lấy, hoặc nhận lấy bằng cách miệng nói được. (Nhận lấy bằng cách miệng nói được là miệng nói vâng).
28. Không được làm những cách bán mua.
29. Nếu dùng cái bát dưới 5 chỗ hàn bịt, bát ấy cũng chưa rỉ nước, thì không được vì tốt đẹp mà kiếm bát mới.
30. Không được tự kiếm chỉ sợi, bảo thợ dệt không phải thân quyến của mình dệt y giúp. (Chỉ sợi là chỉ tơ hay gai).
31. Nếu thí chủ bảo thợ dệt dệt y cho Thức xoa ma na, mà trước đó Thức xoa ma na chưa nhận lời xin tùy ý, thì không được vì tốt đẹp mà đến nơi thợ dệt bảo dệt cho rộng, dài, bền, tỉ mỉ, ngay thẳng, và hứa trả thêm tiền dầu chỉ đáng giá một bữa ăn.
32. Nếu đem y cho người khác rồi, sau đó không được vì tức giận mà đoạt lại hay bảo người khác đoạt lại.
33. Nếu vì bịnh nên cất sữa tô, dầu, sữa tô tươi, mật, đường phèn, thì được dùng cách đêm trong 7 ngày, không được quá 7 ngày mà còn dùng. (Sữa tô là sữa bò sữa dê v.v... biến thành. Dầu là man thanh, chi ma v.v.... Mật là mật ong. Đường phèn là đường mía chưng luyện mà thành. Những loại thuốc này khi nhận được của người, thì đó là ngày đầu. Rồi giới hạn trong 7 ngày có thể đem dùng, và nếu có thừa thì nên cho người khác, không được cất đến ngày thứ 8).
34. Nếu còn 10 ngày nữa hết kiết hạ an cư, có người vì lý do vội vàng mà đem y cúng cho, thì nên nhận, nhận rồi chỉ cất giữ trong thời hạn của y, không được cất giữ nhiều hơn. (Chư tăng lấy ngày 16/7 nhận y công đức, ngày 15/12 thì xả, trong thì gian 5 tháng ấy gọi là thời hạn của y; nếu không nhận y công đức thì thời hạn ấy chỉ có 1 tháng, là 16/7 đến 15/8. Thức xoa ma na tuy không có y công đức, nhưng vì họ kiết hạ có công đức, chuẩn lẽ thì cũng đáng cùng chư tăng được lợi ích của 2 thời hạn, cất giữ trường y mà không phạm giới. Nếu quá 2 thời hạn rồi, không làm tịnh thí thì phạm giới. Tất cả y, vật, phải đến kiết hạ an cư rồi mới được cất giữ, nhưng đây là y cúng vội vàng nên mở thêm 10 ngày trước. Lý do vội vàng là thí chủ cúng vì đi xa, vì chinh phạt, hoặc vì bịnh nhân mà cúng, hoặc cúng vì sản nạn v.v...).
35. Nếu biết là vật người ta muốn cúng cho chư tăng thì không được tìm cách xoay lại cúng cho mình.
36. Không được muốn đòi hỏi cái này rồi lại đòi hỏi cái khác. (Nghĩa là đến nhà thí chủ kiếm vật này rồi lại kiếm các vật khác).
37. Nếu biết thí chủ cúng cho chư tăng là để làm việc khác, thì mình không được đổi làm những việc khác. (Nghĩa là thí chủ cúng tiền của để làm pháp đường mà mình đổi làm y phục, hoặc cúng để làm y phục mà mình đổi làm pháp đường, hoặc cúng cho chỗ này mà mình đổi cho chỗ khác. Nếu hỏi thí chủ, thì tùy lời thí chủ nói mà sử dụng. Hoặc khi thí chủ cúng đã nói tùy ý sử dụng, thì được sử dụng tùy ý).
38. Nếu biết thí chủ cúng đồ vật là để làm việc khác, mình kiếm cũng là kiếm cho chư tăng, thì mình không được đổi làm việc khác. (Cúng cho việc khác ở đây là cúng để ăn mà đem làm y, cúng để làm y mà đem ăn, hoặc cúng cho chỗ này mà lại sử dụng cho chỗ khác. Mình kiếm là xin khắp nơi).
39. Nếu biết thí chủ cúng đồ vật là để làm việc khác, thì không được đổi làm việc khác. (Cúng đồ vật để làm nhà mà mình đem vật ấy đổi y. Không phạm là hỏi thí chủ như điều 37. Điều 37 cúng để làm pháp đường cho chư tăng, còn ở đây cúng để làm nhà cho một vài vị khác, hoặc cho chính mình).
40. Nếu biết thí chủ cúng đồ vật là để làm việc khác, mình kiếm cũng là kiếm cho chư tăng, thì mình không được đổi làm việc khác. (Tăng chúng vì làm phòng làm nhà mà kiếm tiền của khắp nơi, rồi đem tiền của ấy đổi làm y, chia nhau).
41. Không được cất giữ trường bát (5). (Ngày nào được bát thì ngày ấy nên dùng 1 cái thôi, dư ra thì phải tịnh thí hay trả lại người cho).
42. Không được cất giữ nhiều đồ màu tốt. (Ngày nào được đồ thì ngày ấy được dùng, và đồ được dùng là 16 thứ, ngoài ra thì phải tịnh thí hoặc trả lại người cho; 16 thứ là chõ lớn, vung chõ lớn, vò lớn, và mòi vò lớn, chõ nhỏ, vung chõ nhỏ, vò nhỏ, và mòi vò nhỏ, bình nước, nắp bình nước, hũ, và mòi của hũ, bình nước rửa, nắp bình nước rửa, và mòi của bình nước rửa (6)
43. Nếu hứa cho người bịnh y thì sau đó nên cho. (Bịnh y là khi có kinh nguyệt thì dùng ngăn trên thân thể để mặc quần. Hứa cho ai vật gì thì cũng nên cho họ).
44. Không được phi thời y nhận làm thời y. (Thời y là 1 tháng nếu không nhận y công đức, và 5 tháng nếu nhận y công đức; y được có trong 2 thì gian này gọi là thời y. Phi thời y là trường y được có trong thì gian còn lại ngoài 2 thì gian nói trên. Thời y thì chư tăng an cư phân phát, phi thời y thì chư tăng hiện diện phân phát).
45. Nếu đổi y với người khác, sau đó không được giận dữ đoạt lại, hoặc bảo người đoạt. (Đổi y là đem y đổi y, hoặc đem vật khác đổi y, hoặc đem y đổi vật khác).
46. Nếu kiếm áo dày thì nên ngang với giá tiền 4 tấm vải mịn, không được quá hơn. (Áo dày là áo mùa lạnh).
47. Nếu kiếm áo mỏng thì cao lắm cũng chỉ đến giá 2 tấm rưỡi vải mịn, không được quá hơn. (Áo mỏng là áo mùa nóng).
48. Không được cố ý nói dối. (Nói dối trong 6 pháp ở trên là cố ý nói dối trong chư tăng, ở đây chỉ nói dối với 1 người là phạm).
49. Không được chưởi mắng. (Là làm nhục người khác cho họ xấu hổ).
50. Không được nói ly gián. (Là truyền đạt lời nói của đôi bên cho họ đấu loạn với nhau).
51. Không được ngủ một nhà với người nam.
52. Không được cùng với người nữ chưa thọ đại giới ngủ chung một nhà mà quá 3 đêm. (Tăng kỳ luật nói đại ni được ngủ với Thức xoa ma na 3 đêm, Thức xoa ma na được ngủ với Sa di ni 3 đêm).
53. Không được cùng với người chưa thọ đại giới đọc tụng kinh pháp. (Tứ phần luật không cho cùng người chưa thọ đại giới đọc tụng kinh pháp, các luật khác không cho đối diện với người chưa thọ đại giới mà nói về đại giới ấy. Ở đây Thức xoa ma na không được nói với Sa di ni và người tại gia).
54. Nếu biết người khác có tội lỗi nặng thì không được nói với người chưa thọ đại giới. (Nếu chư tăng Yết ma sai nói thì không phạm).
55. Không được nói những pháp hơn người với người chưa thọ đại giới. (Là thật tự chứng được thiền định, giải thoát, tam muội, sơ quả cho đến tứ quả, cũng không được nói với người chưa thọ đại giới).
56. Không được nói pháp cho người nam quá năm sáu lời. (Năm là 5 ấm, sáu là 6 căn hay trần, hoặc còn có những lời tương ứng với năm sáu pháp khác. Nếu bên cạnh có người nữ trí thức thì nói quá hơn cũng không phạm).
57. Không được tự tay đào đất hay bảo người đào.
58. Không được hủy hoại thôn xóm của quỉ thần. (Hết thảy cỏ cây đều là chỗ quỉ thần nương ở, như là thôn xóm của người vậy, nên không được thương tổn, hủy hoại. Cho đến tất cả cây sống đều không được thương tổn, hủy hoại).
59. Không được bày đặt nói quanh để làm người khác bực mình. (Là khi người đúng phép hỏi mình, mình không thích, nên đem sự việc khác mà trả lời, làm cho họ phát bực).
60. Không được ghét mắng người khác. (Là mắng trước mặt hay mắng sau lưng).
61. Nếu đem đồ của chư tăng như giường giây, giường cây, đồ nằm, nệm ngồi, tự mình sắp ra trên mặt đất trống hay bảo người sắp ra, thì khi đi phải tự xếp cất hay bảo người xếp cất.
62. Nếu sắp đồ nằm của chư tăng ra trong tăng phòng, tự mình sắp ra hay bảo người sắp ra, thì khi đi phải tự xếp cất hay bảo người xếp cất.
63. Nếu biết chỗ của người ở trước, mình đến sau, thì không được trải đồ nằm ra ở giữa mà ngủ nghỉ, ý muốn họ hiềm chật quá mà tự tránh đi.
64. Không được tức giận không vui với người khác, nên trong phòng của chư tăng mà tự lôi họ ra hay bảo người lôi ra.
65. Không được ở trên gác mà nằm ngồi trên giường giây giường cây sút chân. (Sút chân là chân ghép, chân lỏng; gác không chắc chắn thì rơi xuống làm người bị thương).
66. Nếu biết nước có trùng thì không được tự dùng dội trên đất trên cỏ, hay bảo người dội. (Các việc rửa, giặt, v.v..., cũng gọi là dùng).
67. Nếu làm phòng lớn, có cửa cánh, cửa sổ, và những đồ trang trí khác, thì nên chỉ bảo lợp tranh chừng hai ba bậc, không được quá. (Hai ba bậc là hai ba lớp).
68. Nếu thí chủ cúng một bữa ăn thì, không bịnh, nên ăn 1 bữa, không được quá. (Thí chủ vì cầu phước nên dựng nhà, cúng thức ăn, nhưng không thể cúng nhiều, nên chỉ cúng một bữa, mời một đêm).
69. Không được ăn riêng tăng chúng. (Nếu khi bịnh, khi may y gấp, khi có người dâng y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại hội, khi sa môn ngoại đạo mời ăn, đều không phạm).
70. Nếu không bịnh, đến nhà thí chủ, họ xin cúng thức ăn, thì không được nhận quá vài ba bát, và về chùa không được không chia cho các vị khác cùng ăn.
71. Không được ăn đồ cách đêm. (Là ngày nay nhận, cất đến ngày mai ăn).
72. Không được thức ăn hay thuốc mình không nhận lời mời mà đã bỏ vào miệng. (Trừ nước và tăm, không nhận lời mời cũng không phạm. Chiếu theo Tứ phần luật thì cho Thức xoa ma na tự tay lấy thức ăn và trao thức ăn cho ni. Tăng kỳ luật cũng cho cùng đại ni trao thức ăn. Trừ hỏa tịnh, sinh chủng, lấy vàng bạc tiền, còn Thức xoa ma na nhận thức ăn từ nơi Sa di ni).
73. Nếu trước đã nhận lời mời rồi, thì không được đến giờ bữa ăn trước và bữa ăn sau đi đến nhà khác mà không dặn ni khác. (Trừ lúc bịnh, lúc may y, lúc cho y, không dặn cũng không phạm. Bữa ăn trước là từ lúc trời sáng cho đến giờ ngọ, bữa ăn sau là giờ ngọ).
74. Nếu trong nhà ăn có vật báu thì không được miễn cưỡng ngồi dai. (Nhà ăn là nhà mà chồng vợ có dục ý, muốn làm sự bất tịnh, thì mình không được miễn cưỡng ngồi dai, trở ngại cho họ).
75. Nếu trong nhà ăn có vật báu thì không được ngồi chỗ khuất.
76. Không được một mình cùng với người nam ngồi chung một chỗ ở đất trống.
77. Nếu hứa trước với người khác cùng đến xóm làng thì kiếm thức ăn cho, nhưng rồi không khuyên cúng thức ăn, lại bảo: tôi với chị ngồi hay nói với nhau một chỗ thì tôi không ưa; tìm cách xua đuổi người ta như vậy thì phạm tội.
78. Nếu thí chủ xin cho thuốc 4 tháng, thì không bịnh cũng nên nhận, nhưng không được nhận quá thời hạn ấy. (Trừ ra họ xin cho luôn, xin cho thêm, xin chia mà cho, xin cho suốt đời, thì không phạm. Nếu 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, tùy người ta xin cho bao lâu mà nhận, không được hết thời hạn lại đến lấy nữa).
79. Không được đi coi quân trận. (Trừ lý do có mời gọi thì không phạm).
80. Nếu có lý do thì được đến trong quân đội tá túc 2 đêm 3 đêm mà không được quá hơn. (Dẫu vì duyên sự Tam bảo cần đến tá túc trong quân đội, thì 1 đêm rồi việc là về; nhiều lắm là 3 đêm, không được quá hơn).
81. Khi tá túc trong quân đội 2 đêm 3 đêm thì không được coi quân đội dàn trận, không được coi lực lượng tượng binh lính diễn tập.
82. Không được giỡn dưới nước.
83. Không được lấy ngón tay thọc léc người khác. (Là lấy ngón tay gải hay ngoáy vào da thịt chỗ mẫn cảm, làm cho người khó nhịn mà phát cười).
84. Không được không chấp nhận mọi sự khuyên can.
85. Không được dọa cho người ta sợ.
86. Nếu nửa tháng tắm rửa, không bịnh thì nên nhận như vậy, không được quá hơn. (Trừ khi nóng, khi bịnh, khi làm việc, khi gió lớn, khi mưa, khi đến từ đường xa).
87. Nếu không bịnh thì không được đốt lửa giữa đất trống hay bảo người đốt. (Trừ vì người bịnh mà nấu ăn, hun bát, nhuộm y, thắp đèn, đốt hương, v.v..., thì không phạm).
88. Không được tự mình hay bảo người cất giấu vật dụng của người khác như y, bát, đồ ngồi, ống kim, dầu chỉ để giỡn chơi. (Ngoài mấy vật trên, mọi vật khác nữa cũng không được cất giấu, trừ ra sợ mất sợ hỏng nên tạm cất giúp, và đưa lại ngay).
89. Nếu tịnh thí y cho người khác rồi, sau đó không hỏi người chủ của y ấy thì không được lấy mặc. (Tịnh thí ở đây là tịnh thí thật sự cho người khác. Nếu tịnh thí triển chuyển, thì, theo phép, có thể mặc tùy ý, không cần hỏi người chủ).
90. Nếu được y mới thì phải nhuộm bằng 3 thứ làm hỏng nguyên màu đi, đó là màu xanh, màu đen, màu nấu vỏ cây mộc lan. Không làm như vậy thì không được dùng. (Trong 3 màu, tùy ý dùng 1 màu. Nếu được cái y mới có màu sắc đúng phép rồi thì cũng nên điểm tịnh mà dùng. Cho đến đãy, giây lưng, mão, tất, khăn, v.v..., đều phải điểm tịnh cả).
91. Nếu biết nước có trùng thì không được uống. (Phải lọc kỹ nhìn kỹ không trùng mới dùng).
92. Không được cố quấy rối người khác, dầu chỉ làm cho họ chốc lát không vui.
93. Nếu biết người có lỗi thì không được che giấu giúp. (Giới thứ 2 ở trước là che giấu tội nặng, giới này che giấu tội nhẹ).
94. Nếu biết sự việc tranh cãi đã sám hối đúng phép rồi, thì sau đó không được khơi dậy trở lại.
95. Nếu biết là giặc thì không được cùng đi một đường, dầu chỉ bằng đến thôn xóm.
96. Nếu phát sinh kiến thức ác hại, nói rằng theo tôi biết giáo pháp Phật nói thì hành dâm không phải là sự chướng đạo; nói như vậy mà được can gián thì phải xả bỏ tức khắc.
97. Nếu biết đó là người không chịu xả bỏ kiến thức ác hại và sai lầm, chư tăng chưa tác pháp Yết ma giải tội cho, thì mình không được chứa chấp, ngủ chung.
98. Nếu biết đó là Sa di ni có kiến thức ác hại, bị chư tăng trục xuất, thì mình không được chứa chấp, ngủ chung.
99. Nếu khi được can gián đúng phép thì không được nói rằng tôi nay không học giới này, tôi sẽ gạn hỏi vị trì luật nào có trí tuệ.
100. Khi nghe thuyết giới thì không được khinh chê giới pháp, nói rằng thuyết những giới điều vụn vặt ấy làm gì, chỉ làm cho người bực dọc, xấu hổ, thắc mắc mà thôi.
101. Khi nghe thuyết giới thì phải chuyên nhất tâm trí, thâu nhiếp thính giác mà nghe cho kỹ.
102. Nếu cùng tăng chúng cho người ta đồ vật rồi, sau đó không được nói rằng vị đó theo bạn thân nên lấy vật của chư tăng mà cho họ.
103. Nếu chư tăng xử việc chưa xong thì khi đó mình không được không dữ dục mà đứng dậy đi ra.
104. Nếu dữ dục rồi sau đó không được hối tiếc.
105. Không được lén nghe tranh cãi rồi sau đó đem lời ấy nói với người khác.
106. Không được tức giận không vui mà đánh người khác.
107. Không được tức giận không vui mà lấy tay tát người khác. (Tát là trương bàn tay ra mà đánh người).
108. Không được tức giận không vui, đem sự vô căn cứ mà phỉ báng người khác. (Giới thứ 5 ở trước là phỉ báng tội nặng, giới này phỉ báng tội nhẹ).
109. Nếu vua chưa ra khách, chưa cất bảo vật, thì không được vào quá ngưỡng cửa của cung vua.
110. Nếu là vàng ngọc hay đồ trang sức bằng vàng ngọc thì không được cầm giữ hay bảo người cầm giữ. (Trừ trong chùa và chỗ ngủ nhờ, sợ mất đi nên lấy cất, nhưng phải biết và nhớ mà trả cho người chủ).
111. Không được đi vào làng xóm không phải lúc mà không dặn lại ai cả. (Nên dặn đại ni, không có đại ni thì dặn người phạm hạnh đồng hàng, cho đến dặn Sa di ni).
112. Nếu làm giường giây giường cây thì chân chỉ cao bằng 8 ngón tay của Phật, không được quá hơn. (Một ngón tay của Phật dài bằng 2 tấc) (7).
113. Không được lấy bông đâu la độn nệm lót giường giây giường cây, hay độn ngọa cụ tọa cụ. (Bông đâu la là tên chung của hoa bạch dương, hoa dương liễu, hoa bồ đài).
114. Không được ăn hành tỏi.
115. Không được cạo lông 3 chỗ. (Là chỗ đại tiểu tiện, và dưới nách).
116. Nếu dùng nước tác tịnh thì nên giới hạn 2 ngón tay, mỗi ngón 1 đốt, không được quá. (Nếu ở trong có trùng có rác phải kéo ra thì không phạm).
117. Không được dùng những vật như hồ giao v.v... mà làm nam căn.
118. Không được cùng vỗ nhau (Dùng tay hay chân, hay nữ căn vỗ nhau, đều phạm tội).
119. Nếu khi Tỳ kheo không bịnh thì mình không được bưng nước, đứng trước mặt lấy quạt mà quạt.
120. Không được xin lúa hay lúa mạch sống. (Cho đến đậu lớn, đậu nhỏ, và mè, đều không được phép xin. Trừ ra xin bà con quen biết hay người xuất gia, thì mình xin cho người, người xin cho mình, không xin mà được, đều không phạm).
121. Không được đại tiểu tiện hay hỷ nhổ trên cỏ tươi. (Nếu có bịnh thì không phạm).
122. Nếu sáng sớm, không ngó ngoài tường thì không được đổ bỏ đại tiện tiểu tiện. (Phải ngó ngoài tường không người mới đổ. Đổ những vật khác thì trước hết cũng phải dặng hắng, vỗ tay).
123. Không được đi xem nghe kỹ nhạc.
124. Không được đi vào làng xóm mà cùng với người nam đứng và nói chuyện ở chỗ khuất. (Giới thứ 1 là cùng với người nam có ý dâm dục mà ở chỗ khuất đứng và nói chuyện. Giới này, và 2 giới tiếp theo, là cùng đứng và nói với người nam không có ý dâm dục).
125. Không được cùng với người nam đi vào chỗ khuất và có vật ngăn che.
126. Không được vào trong làng trong hẻm, bảo bạn đi xa đi, rồi cùng người nam ở chỗ khuất đứng chung và kề tai mà nói.
127. Nếu vào ngồi trong nhà cư sĩ thì không được không nói với chủ nhân mà bỏ đi.
128. Nếu vào trong nhà cư sĩ thì không được không nói với chủ nhân mà ngồi liền trên giường. (Trừ ra có chỗ thường ngồi, hoặc nhà thân thiết, hoặc trên đá, trên gỗ, trên đất cứng, trên thảm cỏ, hoặc bịnh, thì không phạm).
129. Nếu vào nhà người, không nói với chủ nhân thì không được tự sắp liền chỗ mà ngồi, ngủ, nghỉ.
130. Không được cùng người nam vào trong nhà tối.
131. Không được không thẩm định lời nói mình tiếp nhận mà đã nói ngay với người khác.
132. Nếu có lý do hay sự việc nhỏ nhặt thì không được thề liền rằng đọa ác đạo, không sinh trong Phật pháp. (Ấy là không nên thề thốt. Nếu có việc khó chịu đến với mình, nên nói nếu tôi có việc như vậy thì, "lạy Phật", nếu cô có việc như vậy thì, "lạy Phật").
133. Không được tranh cãi với người khác vì không khéo nhớ sự việc tranh cãi, rồi đấm ngực khóc la.
134. Nếu không bịnh thì không được 2 người nằm chung 1 giường.
135. Không được nằm chung 1 nệm, cùng 1 chăn. (Nên mỗi người đắp riêng nhau, nếu trời lạnh mà chỉ có 1 chăn, thì được phép người nào cũng mặc áo lót mà nằm).
136. Không được vì quấy rối mà tụng kinh, hỏi nghĩa và chỉ dạy trước mặt người ta.
137. Nếu người sống chung bị bịnh thì không được không trông nom. (Sống chung ở đây là chung cùng lợi dưỡng).
138. Nếu đầu an cư cho người ta đặt giường trong phòng mình, thì sau đó không được tức giận mà đuổi người ta ra. (Trừ người ta phạm giới, hoặc đáng trục xuất, thì không phạm).
139. Không được mùa xuân, mùa hạ, mùa đông, tất cả các mùa đều du hành dân gian. (Trừ ra vì việc của Tam bảo và vì săn sóc bịnh nhân, thì được phép xuất giới 7 ngày mà đi, 7 ngày đủ rồi phải về ngay).
140. Nếu kiết hạ an cư rồi không được không đi. (Vì thí chủ xin cúng dường an cư chỉ giới hạn đến hết an cư, nên phải ra đi, không được ở lại dầu chỉ 1 đêm. Nếu bị cản trở vì lý do bất khả kháng, nếu bịnh, nếu thí chủ xin cúng dường không giới hạn, nếu an cư ở chỗ không phải nhận lời mời, thì không đi cũng không phạm).
141. Không được ngoài khu vức có chỗ nghi là đáng sợ mà vẫn đi vào dân gian. (Ngoài khu vức là chỗ xa thành ấp. Nếu bị mời gọi, nếu đến trước rồi mới nghi có sự đáng sợ xảy ra, thì không phạm).
142. Không được trong khu vức có chỗ nghi là đáng sợ mà vẫn đi vào dân gian. (Trong khu vức là 4 mặt quanh thành).
143. Không được thân thiết với cư sĩ và con cư sĩ, sống chung, rồi làm hạnh bất tùy thuận, can cũng không bỏ. (Thân thiết là luôn luôn nói cười với nhau, bỡn cợt với nhau).
144. Không được đi coi hoàng cung với điện đường sơn vẽ, vườn rừng hồ tắm.
145. Không được khỏa thân tắm trong nước sông, nước suối, nước hồ.
146. Nếu làm khăn tắm thì phải dài bằng 6 gang tay của Phật, rộng bằng 2 gang rưỡi, không được quá hơn. (Khăn tắm là cái khăn che mình mà tắm rửa. Một gang của Phật tương đương 3 gang của người thường, và theo thước nhà Chu thì có 1 thước 8 tấc).
147. Không được may y quá 5 ngày. (Nếu không có kéo, kim, chỉ, hay vải không đủ, cho đến có việc tai nạn, thì không phạm).
148. Không được quá 5 ngày không coi sóc y. (Những vật cần dùng khác cũng phải 5 ngày coi sóc 1 lần, đừng để mất, sâu ăn, màu hỏng. Nếu chỗ cất chắc chắn, nếu người được gửi coi giúp, thì không phạm).
149. Không được ngăn cản cúng y cho chư tăng. (Là thí chủ muốn cúng y cho chư tăng mà mình khuyên cúng thức ăn, đừng cúng y. Cũng không được cản trở những người khác cúng những vật khác).
150. Nếu không hỏi người chủ thì không được tự tiện mang y của họ. (Trừ người thân thiết).
151. Không được cầm y sa môn mà cho ngoại đạo hay cư sĩ. (Cư sĩ là người tại gia. Trừ ra cho cha mẹ, cho để người ta trả nợ. Nếu ai đến xin 1 miếng ca sa để trừ khử tai nạn, thì nên bảo tịnh nhân đưa cho).
152. Nếu chư tăng chia y đúng phép, thì không được ngăn cản vì sợ đệ tử không được phần. (Thức xoa ma na không có phép nuôi đệ tử, nhưng cũng không được vì bạn thân mà ngăn cản).
153. Không được có ý thức muốn hưởng lâu 5 sự nên làm cho chư tăng hiện không xả y công đức, để sau sẽ xả. (Tăng ni 2 chúng an cư xong rồi, ngày 16/7 cùng lãnh thọ y công đức. Lãnh thọ y này rồi, trong 5 tháng được hưởng 5 sự lợi ích: một là được cất giữ trường y, hai là được ngủ rời y, ba là được ăn riêng chúng, bốn là được ăn triển chuyển, năm là được ăn bữa ăn trước và bữa ăn sau, và đi vào làng xóm mà không cần dặn ai. Thức xoa ma na tuy không có y công đức, nhưng vì an cư theo đại ni, nên cũng nên có 5 sự lợi ích. Y công đức lãnh thọ từ ngày 16/7, đến ngày 15/12 chư tăng Yết ma mà xả).
154. Không được có ý thức muốn hưởng lâu 5 sự nên ngăn cản Tỳ kheo ni tăng xả y công đức.
155. Nếu có ni khác nói với, rằng xin diệt trừ sự tranh cãi ấy cho tôi, thì thực thi phương tiện liền mà diệt trừ. (Nếu bịnh, nếu nói họ không nghe, nếu họ phá giới, v.v..., thì không phạm).
156. Không được tự tay đưa thức ăn cho cư sĩ và ngoại đạo ăn. (Nên nhờ người đưa mà cho, hoặc để trên chỗ để nào đó mà cho).
157. Không được làm người sai sử cho cư sĩ. (Là lo liệu việc nhà của cư sĩ, hoặc xay giã, nấu ăn, sắp chỗ ngồi, lấy nước, quét đất, v.v.... Nếu làm cho cha mẹ, cho nữ tín đồ tín tâm chân thành mà bị bịnh, cho người bị trói giam, thì không phạm).
158. Không được tự tay xe chỉ đánh sợi. (Nếu tự tháo rã chỉ sợi, nối tiếp chỉ sợi, thì không phạm).
159. Nếu vào nhà cư sĩ thì không được ngồi hay nằm trên giường lớn giường nhỏ của họ.
160. Nếu đến nhà cư sĩ ngủ lại thì sáng ngày phải cáo từ chủ nhân mới đi. (Hoặc dặn cho người quen thân biết, hoặc có giặc, có rắn độc, có thú dữ, thì ra đi không phạm).
161. Không được tụng tập chú thuật của thế tục, hoặc chỉ dạy cho người tụng tập.
162. Nếu biết là người như vậy như vậy thì không được độ cho xuất gia. (Người như vậy như vậy là dâm nữ. Nếu người ấy có tín tâm lớn lao, chán bỏ nghề ác, thì nên đem đến chỗ cách năm sáu do tuần, giấu kỹ cho họ, phó thác cho đại ni giáo thọ. Thức xoa ma na tuy không có cái phép nuôi đệ tử, nhưng phải học trước việc này).
163. Không được không có 2 năm theo hòa thượng ni. (Lãnh thọ đại giới rồi cũng cần phải có 2 năm theo thầy. Nếu thầy phá giới thì bỏ đi, không phạm).
164. Nếu Tỳ kheo ni tăng kiết hạ an cư rồi, không được không đến giữa Tỳ kheo tăng, nói 3 sự thấy, nghe, nghi, để cầu tự tứ. (Phải học trước giới này. Tứ phần luật nói Thức xoa ma na cũng theo ni chúng đến chỗ đại tăng mà xin tự tứ).
165. Không được ở chỗ không có Tỳ kheo mà kiết hạ an cư. (Vì sẽ không có giáo thọ, và nếu có gì hoài nghi thì không thể hỏi ai).
166. Nếu biết tăng già lam có Tỳ kheo thì phải thưa rồi mới vào. (Phạn tự tăng già lam, Hoa dịch chúng viên, có nghĩa là chỗ chư tăng cư trú, phải thưa trước mà vào).
167. Không được mắng Tỳ kheo.
168. Không được ưa tranh cãi vì không khéo nhớ sự việc tranh cãi, sau đó giận dữ không vui, mắng cả ni chúng.
169. Nếu thân thể sinh ung nhọt và các thứ ghẻ, mà không bạch trong chúng, không nói với ai, thì không được nhờ người nam mổ hay băng. (Muốn nhờ người nam chữa trị cho thì phải đánh kiền chùy, tập hợp ni chúng, đến trước bịnh nhân, lấy áo bao mình, chỉ để cái chỗ cần chữa, rồi mới nhờ chữa trị).
170. Nếu trước nhận lời thỉnh mời, ăn đủ rồi, thì sau đó không được ăn thức ăn chính. (Thức ăn chính là cơm, miến, cơm chiên, v.v.... Nếu nhận lời mời không phải ăn chính, nếu lời mời không phải ăn đủ, nếu trước không được thỉnh mời, thì toàn không phạm).
171. Không được đối với thầy mình (8) mà sinh tâm ganh ghét. (Là nhà thí chủ quen biết đem đồ cúng cho người khác, lòng mình không vui, sinh ra ganh ghét).
172. Không được dùng hương liệu mà xoa xát thân thể.
173. Không được lấy cặn dầu mè xoa xát thân thể. (Mè ở đây là chi ma).
174. Không được bảo người khác xoa xát thân thể. (Không được bảo Thức xoa ma na ni, Sa di ni, và phụ nữ tại gia xoa xát thân thể, càng không được nhờ Tỳ kheo ni làm việc xoa xát ấy).
175. Không được mặc quần lót độn dày. (Quần lót là quần đùi. Độn là lấy bông mới hay? mà độn). (9)
176. Không được cất chứa đồ trang điểm thân thể phụ nữ. (Là xuyến đeo tay đeo chân, nhẫn đeo ngón tay, chuỗi ngọc đeo cổ, v.v...).
177. Không được đi mà mang dép da và cầm dù. (Dép da là giày da thú. Dù là dù tán. Nếu trời mưa thì được phép ở trong chùa mà cầm dù, cũng được phép ở trong chùa mà mang dép).
178. Không bịnh thì không được đi xe. (Xe là xe voi, xe ngựa, xe người kéo đẩy. Nếu già, nếu bịnh, thì được phép ngồi xe kéo, xe người nữ điều khiển. Nếu có nạn mới được phép ngồi bất cứ xe gì).
179. Nếu không mặc tăng kỳ chi thì không được vào làng xóm. (Tăng kỳ chi là áo cánh che nách. Không mặc áo này thì bày ngực, nhủ bộ, và eo. Nếu không có, nếu bị mất, nếu sắp may, thì không phạm).
180. Không được sắp tối mà đến nhà cư sĩ. (Nếu vì việc của Tam bảo, nếu vì việc trông nom bịnh nhân, nếu thí chủ mời gọi thì được đi).
181. Không được sắp tối, mở cửa chùa ra đi mà không dặn ni khác.
182. Nếu không việc thì phải tiền an cư, có việc thì phải hậu an cư, không được không an cư. (Ngày 16/4 là ngày tiền an cư, ngày 16/5 là ngày hậu an cư. Nếu có việc Tam bảo, nếu trông nom bịnh nhân, không kịp tiền an cư thì được phép hậu an cư. Tiền an cư cấm túc đến ngày 15/7 giải chế, hậu an cư cấm túc đến ngày 15/8 giải chế).
183. Không được học tập thuật số thế tục để tự mưu sinh.
184. Không được đem thuật số thế tục chỉ dạy cho cư sĩ. (Là không chỉ dạy cho cư sĩ đừng hướng về miếu thờ thần thái dương và thần thái âm mà đại tiểu tiện, đừng hướng về miếu thờ thần thái dương và thần thái âm mà đổ phân rác hay đổ mọi thứ nước dơ, đừng hướng về miếu thờ thần thái dương và thần thái âm mà duỗi chân. Lại nói ngày nay có sao ấy là ngày tốt, nên trồng trỉa, làm nhà, nuôi tôi tớ, cạo tóc trẻ con, cất của, đi xa, v.v...).
185. Nếu bị trục xuất thì không được không đi. (Nên phục tùng, hạ ý sám hối, cầu giải tỏa sự trục xuất).
186. Nếu muốn hỏi nghĩa lý kinh pháp nơi vị Tỳ kheo, thì trước hết phải cầu xin cho phép rồi sau đó mới hỏi. (Nếu trước thường cho hỏi, nếu 2 vị hòa thượng và giáo thọ là quen thân, thì không cầu cũng không phạm).
187. Nếu biết người ở trước mình đến sau, người đến sau mình ở trước, thì không được muốn quấy rối người ta, ở trước mặt họ mà kinh hành, đứng, ngồi, và nằm.
188. Nếu biết là chùa có Tỳ kheo thì không được xây tháp nơi chùa ấy. (Là xây tháp ni. Nếu tháp cũ hỏng, nếu tháp xây trước chùa cất sau, thì không phạm).
189. Nếu thấy vị Tỳ kheo mới thọ cụ túc giới thì phải đứng dậy, đón rước, cung kính, lễ bái, hỏi han, mời ngồi. (Nếu đang ăn mà chỉ ngồi một lần, nếu có bịnh, thì nên nói: đại đức, con xin sám hối, con có lý do như vậy, không thể đứng dậy, đón rước).
190. Không được vì làm dáng cho đẹp nên đi mà lắc mình rảo bước. (Nếu có bịnh như vậy, nếu tránh gậy, tránh voi dữ, cho đến tránh chông gai, nếu lội nước lội bùn, nếu ngoái mình coi y áo có tề chỉnh hay không, thì không phạm). (10).
191. Không được dùng đồ trang sức của phụ nữ, dùng hương liệu xoa mình.
192. Không được nhờ nữ nhân ngoại đạo xoa xát hương liệu vào mình.
193. Không được không bịnh mà kiếm để ăn 8 thứ: sữa tô, dầu, mật ong, đường phèn, sữa, sữa lạc, cá, thịt. (11). (Trên đây là 193 điều thuộc về giới pháp; dưới đây là 99 điều thuộc về oai nghi).
194. Nên mặc quần cho tề chỉnh.
195. Nên mặc y cho tề chỉnh.
196. Không được vắt trái y đi vào nhà cư sĩ.
197. Không được vắt trái y ngồi nhà cư sĩ.
198. Không được quấn y nơi cổ vào nhà cư sĩ.
199. Không được quấn y nơi cổ ngồi nhà cư sĩ.
200. Không được trùm đầu vào nhà cư sĩ.
201. Không được trùm đầu ngồi nhà cư sĩ.
202. Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà cư sĩ.
203. Không được vừa đi vừa nhảy vào ngồi nhà cư sĩ.
204. Không được ngồi xoạc đùi (12) trong nhà cư sĩ.
205. Không được chống nạnh đi vào nhà cư sĩ.
206. Không được chống nạnh ngồi nhà cư sĩ.
207. Không được lắc mình đi vào nhà cư sĩ.
208. Không được lắc mình ngồi nhà cư sĩ.
209. Không được vung tay đi vào nhà cư sĩ.
210. Không được vung tay ngồi nhà cư sĩ.
211. Khéo che mình kín đáo vào nhà cư sĩ.
212. Khéo che mình kín đáo ngồi nhà cư sĩ.
213. Không được nhìn bên này liếc bên kia đi vào nhà cư sĩ.
214. Không được nhìn bên này liếc bên kia ngồi nhà cư sĩ.
215. Yên lặng vào nhà cư sĩ.
216. Yên lặng ngồi nhà cư sĩ.
217. Không được giỡn cười đi vào nhà cư sĩ.
218. Không được giỡn cười ngồi nhà cư sĩ.
219. Chú ý khi ăn (13).
220. Lấy cơm chỉ ngang miệng bát mà ăn.
221. Cả đồ ăn (14) nữa cũng chỉ lấy ngang miệng bát mà ăn.
222. Đồ ăn và cơm phải lấy tương đương với nhau.
223. Tuần tự mà ăn (15).
224. Không được moi xốc giữa bát mà ăn.
225. Không bịnh thì không được tự hỏi cơm và đồ ăn cho mình.
226. Không được lấy cơm đậy đồ ăn lại để mong có đồ ăn nữa.
227. Không được liếc xem trong bát của người ngồi bên cạnh.
228. Phải để ý nơi bát mà ăn.
229. Không được dồn cơm lớn miệng mà ăn.
230. Không được hả lớn miệng để chờ cơm mà ăn.
231. Không được ngậm cơm mà nói chuyện. (Ngậm những thức ăn khác cũng không được nói chuyện).
232. Không được nắm cơm ngoài xa ném vào miệng.
233. Không được ăn mà còn sót lại (16).
234. Không được bung má mà ăn.
235. Không được nhai (17) ra tiếng mà ăn.
236. Không được hớp cơm mà ăn.
237. Không được le lưỡi liếm mà ăn.
238. Không được rảy tay mà ăn. (Là cất tay mà rảy. Nếu trong đồ ăn có sâu, cỏ, v.v..., thì rảy bỏ, không phạm).
239. Không được lượm cơm rơi mà ăn.
240. Không được tay dơ cầm đồ đựng thức ăn (18).
241. Không được đổ nước rửa bát trong nhà cư sĩ. (Phải đem ra ngoài mà đổ).
242. Không được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ vào nước sạch (trừ lúc có bịnh).
243. Không đứng mà đại tiện tiểu tiện (trừ lúc có bịnh).
244. Không được thuyết pháp cho người vắt áo lên vai, không cung kính (trừ lúc họ có bịnh).
245. Không được thuyết pháp cho người quấn áo nơi cổ (trừ lúc họ có bịnh).
246. Không được thuyết pháp cho người che đầu (trừ lúc họ có bịnh).
247. Không được thuyết pháp cho người trùm đầu (trừ lúc họ có bịnh).
248. Không được thuyết pháp cho người chống nạnh (trừ lúc họ có bịnh).
249. Không được thuyết pháp cho người mang dép da (trừ lúc họ có bịnh).
250. Không được thuyết pháp cho người mang guốc gỗ (trừ lúc họ có bịnh).
251. Không được thuyết pháp cho người cưỡi ngựa (trừ lúc họ có bịnh).
252. Không được ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ ra để coi giữ.
253. Không được cất giấu của cải trong tháp Phật, trừ ra để cho chắc chắn.
254. Không được mang dép da vào trong tháp Phật.
255. Không được cầm dép da vào trong tháp Phật.
256. Không được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật.
257. Không được mang giày ủng vào trong tháp Phật. (Dày ủng, Phạn tự là phú la, là dày ống, dày ủng; Phật cho dùng ở những xứ tuyết lạnh).
258. Không được cầm giày ủng vào trong tháp Phật.
259. Không được ngồi ăn nơi tháp Phật mà xả rác và thức ăn làm dơ đất.
260. Không được khiêng thây chết đi qua tháp Phật.
261. Không được chôn thây chết nơi tháp Phật.
262. Không được đốt thây chết nơi tháp Phật.
263. Không được hướng về tháp Phật mà đốt thây chết.
264. Không được đốt thây chết bốn phía tháp Phật để hơi hôi bay vào.
265. Không được mang áo và giường người chết đi qua tháp Phật, trừ ra đã giặt, nhuộm và xông hương.
266. Không được đại tiện tiểu tiện nơi tháp Phật.
267. Không được hướng về tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện.
268. Không được đại tiện tiểu tiện bốn phía tháp Phật để hơi thối bay vào.
269. Không được mang ảnh tượng của Phật đến chỗ đại tiện tiểu tiện.
270. Không được ở nơi tháp Phật mà xỉa răng.
271. Không được hướng về tháp Phật mà xỉa răng.
272. Không được bốn phía tháp Phật mà xỉa răng.
273. Không được nơi tháp Phật mà hỷ mũi khạc nhổ.
274. Không được hướng về tháp Phật mà hỷ mũi khạc nhổ.
275. Không được bốn phía tháp Phật mà hỷ mũi khạc nhổ.
276. Không được ngồi duỗi chân trước tháp Phật.
277. Không được để tượng Phật ở phòng dưới còn mình ở phòng trên.
278. Người ngồi mà mình đứng thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
279. Người nằm mà mình ngồi thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
280. Người ngồi ghế mà mình ngồi chỗ không phải ghế thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
281. Người ngồi chỗ cao mà mình ngồi chỗ thấp thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
282. Người đi trước mà mình đi sau thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
283. Người ở chỗ kinh hành cao mà mình ở chỗ kinh hành thấp thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
284. Người đi giữa đường mà mình đi lề đường thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
285. Không được dắt tay nhau mà đi đường.
286. Không được trèo cây cao quá đầu người (trừ lý do tai nạn).
287. Không được đựng bát vào đãy, xâu vào đầu tích trượng rồi vác trên vai mà đi.
288. Người cầm gậy, không cung kính, thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
289. Người cầm kiếm thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
290. Người cầm mâu thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
291. Người cầm dao thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
292. Người che dù thì không được thuyết pháp cho họ (trừ lúc họ có bịnh).
Tăng kỳ luật nói, Thức xoa ma na ở dưới tất cả đại ni, ở trên tất cả Sa di ni. Đến ngày bố tát, tự tứ, thì đến trước chư tăng mà quì thẳng, chắp tay, thưa như vầy: Kính bạch chư tăng A lê da, con pháp danh là XX, thanh tịnh, xin chư tăng ghi nhớ nắm chắc như vậy cho con. (Nói 3 lần rồi đi ra. A lê da, Hoa dịch là thánh giả).

4/ Cách Sám Hối 292 Hành Pháp
Thức xoa ma na nếu trái với các hành pháp, trực phạm huấn dụ của Phật, thì phải sám hối tức khắc, đừng để hỏng mất 6 học pháp. Hãy đến trước Hòa thượng ni (Thân giáo sư ni), trước A xà lê ni (Qũy phạm sư ni), hoặc trước Tỳ kheo ni khác, vắt một vạt y, để trần vai phải, quì thẳng, chắp tay, tác bạch như vầy: Ngưỡng bạch Thân giáo sư, xin ngài nhất tâm ức niệm cho con. Con là Thức xoa ma na XX, đã cố ý đem tâm ô nhiễm chịu cho người nam có tâm ô nhiễm nắm tay (291 hành pháp khác, vi phạm pháp nào thì nói rõ pháp ấy). Con đã vi phạm hành pháp. Nay con hướng về Thân giáo sư, phát lộ sám hối, không dám tái phạm. Nguyện xin Thân giáo sư ức niệm cho con. (Nói 3 lần như vậy, vị Ni đáp:) Con hãy tự trách cứ tâm mình, hãy nhàm chán và tách rời tội lỗi. (Thức xoa ma na thưa:) Dạ, con xin làm đúng như vậy. (Nếu không phải Thân giáo sư và Qủy phạm sư, thì xưng Đại tỷ).

Ghi chú:
Ghi Chú (1)
Tất cả những chỗ đóng mở vòng đơn đều là cước chú của nguyên tác.
Ghi Chú (2)
Từ đây sắp đi, những điều liên tiếp mà liên hệ với nhau thì không xuống dòng.
Ghi Chú (3)
Trường y cũng có nghĩa là y thừa.
Ghi Chú (4)
Xin tùy ý là người cúng xin người nhận muốn sao cũng được.
Ghi Chú (5)
Trường bát: bát dư thừa.
Ghi Chú (6)
Chỗ này một phần đồ xưa, chữ xưa, nay cái có cái không, một phần ấn bản không rõ, nên dịch không chắc chắn.
Ghi Chú (7)
Thước tấc xưa.
Ghi Chú (8)
Chính văn là gia. Tác giả ở đây hiểu là nhà thí chủ. Chỗ khác giải thích phải đọc là cô, thái cô, nghĩa là bà thầy. Xét trường hợp có ra giới này thì hiểu là thấy có phần đúng hơn.
Ghi Chú (9)
Ở đây có 1 chữ nhìn không ra.
Ghi Chú (10)
Cước chú này là lấy Vạn 63/303 mà bổ túc.
Ghi Chú (11)
Cá và thịt là tiểu thừa tùy thí tùy thực (cho gì ăn nấy).
Ghi Chú (12)
Chính văn là tôn tọa. Các bản chú thích nói là cách ngồi mà tiếng thông tục gọi là ngồi chỏ hỏ. Nhưng từ điển nói tôn là xoạc ra, tôn tọa là ngồi xoạc đùi ra.
Ghi Chú (13)
Để khỏi rơi đồ ăn xuống.
Ghi Chú (14)
Chính văn là canh. Nhưng ở đây rõ ràng canh là các thức ăn.
Ghi Chú (15)
Ăn không tuần tự là ngay trong bát mà đã lấy ăn lung tung.
Ghi Chú (16)
Dịch theo chú thích ở chỗ khác là một nửa vào miệng, một nửa còn lại nơi tay.
Ghi Chú (17)
Dịch đủ là nhai cơm. Nhưng đủ mà thiếu. Bất cứ nhai gì cũng không được ra tiếng, không phải chỉ nhai cơm.
Ghi Chú (18)
Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới nói nước uống.

V)- Tỳ Kheo Giới
Hòa Thượng Thích Trí Quang dịch giải

1/ Ghi Sau Khi Duyệt Tỳ kheo Giới
2/ Dẫn Nhập Tỳ Kheo Giới Của Tứ Phần Luật
3/ Phần Đầu Tỳ kheo Giới
4/ Tỳ kheo Giới: Lời Mở Đầu
5/ Bốn Giới Khí
6/ Mười ba Giới Tăng Tàn
7/ Hai Giới Bất Định
8/ Ba mươi Giới Xả Đọa
9/ Chín mươi Giới Đọa
10/ Bốn Giới Hối Quá
11/ Trăm Giới Học
12/ Bảy Pháp Diệt Tránh
13/ Phần Cuối Tỳ kheo Giới
Ghi Chú

1/ Ghi Sau Khi Duyệt Tỳ kheo Giới
Tập tục giữa Ấn, Tàu với ta khác nhau nhiều lắm. Xưa và nay càng khác hơn. Phật giáo cũng vậy. Nên muốn hiểu luật thì phải biết những cái khác đó, kể cả cái khác giữa Bắc tông với Nam tông.
Hãy nói vài ví dụ nhỏ nhặt. Tập tục khác nhau như Ấn ăn bốc, không biết như vậy thì không hiểu được giới 40 (trong 100 giới học) với ghi chú ăn không được một nửa vào miệng, một nửa còn nơi tay. Xưa nay khác nhau như rửa tay sau khi đại tiện thì xưa dùng đất, tro, bồ hòn, bồ kết, nay thì xà phòng. Ấy là chưa nói bao nhiêu cái khác, lớn có nhỏ có, giữa xưa và nay, giữa 2 tông Bắc Nam. Có những cái bây giờ khác hẳn rồi, thí dụ nói về ngọa cụ và tọa cụ.
Chỉ nói bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy ngày nay Tỳ kheo giới có một ít giới điều không còn nói đến nữa. Thế nhưng ngày nay lại có bao nhiêu cái mà Tỳ kheo giới đã không qui định trước được. Thí dụ sự học hành, sự giao tiếp... Chỉ sự giao tiếp mà thôi, mà bao nhiêu điều thích ứng hoặc phản ứng đã phải đặt ra. Chưa nói ăn mặc ở, 3 sự ấy có bao nhiêu là xáo trộn mà tiện lợi có, khó xử có.
Mấy lời ghi trên đây đi đến kết luận gì? Kết luận ở chỗ phải nhớ luôn đến cái chủ ý của Tỳ kheo giới. Chủ ý đó là muốn Tỳ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗi và cử động bất xứng, nghĩa là cụ túc giới pháp và oai nghi. Rồi từ chủ ý đó, phải có những sự hạn chế (giá) và linh động (khai) mà sao cho như "liên hoa bất trước thủy", "sự lai tâm hiện, sự khứ tâm không".
Làm như vậy với ý thức và hậu quả là Tỳ kheo giữ được bản sắc của mình, của Phật giáo mình không để đời không có mình cũng được, hay mình cũng như đời mà thôi. Nói cách khác, Tỳ kheo không tự cao nhưng không tục hóa. Giới luật còn thì Phật pháp còn là như thế này đây.
Mồng 10 tháng 5, 2537
Hòa Thượng Thích Trí Quang

2/ Dẫn Nhập Tỳ Kheo Giới Của Tứ Phần Luật
(1) Phật lịch 2518, tôi đã đọc tất cả 5 bộ luật của Phật giáo văn hệ Trung Hoa, gọi tắt và ghi theo số hiệu của Đại tạng kinh bản Đại chính thì 1421 là Ngũ phần, 1425 là Tăng kỳ, 1428 là Tứ phần, 1435 là Thập tụng, 1442 là Hữu bộ. Ngoài ra, 1462 là Thiện kiến tuy không trọn vẹn mà rất đáng đọc.
Thế giới Phật giáo thông sử (tập 1 trang 54) nói Tăng kỳ là của Đại chúng bộ, Ngũ phần là của Hóa địa bộ, Tứ phần là của Pháp tạng bộ, Thập tụng là của Hữu bộ Ma du la, Hữu bộ là của Hữu bộ Ca thấp di la.
Muốn biết giữa 5 bộ luật như thế nào thì sơ khởi hãy đem giới bản của 5 bộ ra mà so sánh chút ít. Tỳ kheo giới có 8 loại: 1 là khí, 2 là tăng tàn, 3 là bất định, 4 là xả đọa, 5 là đọa, 6 là hối quá, 7 là học pháp, 8 là diệt tránh. Trong 8 loại này, chỉ có 2 loại 5 và 7 là 5 bộ khác nhau: loại 5 thì Tứ phần, Thập tụng và Hữu bộ đều có 90, Ngũ phần có 91, Tăng kỳ có 92; còn loại 7 thì Ngũ phần và Tứ phần có 100, Tăng kỳ có 66, Thập tụng có 113, Hữu bộ có 42. Nhìn đại khái, giới điều quan trọng thì 5 bộ như nhau, giới điều linh tinh mới khác nhau. Nhìn thêm chút nữa, giới bản của Tăng kỳ, Ngũ phần và Thập tụng thì lời kệ mở đầu và kết thúc đều như nhau, chỉ Tứ phần với Hữu bộ mới khác nhau. Xét văn tự thì Tứ phần có chậm nhất, xét bộ phái thì Tăng kỳ có sớm nhất. Theo ngài Pháp hiển ghi thì "luật Tăng kỳ này khi Phật tại thế được đại chúng đầu tiên tuân hành, được lưu truyền tại tinh xá Kỳ hoàn".
Tôi suy đoán rằng Thượng tọa bộ có 1 bộ luật là bộ được tụng ra trong Đại hội 1 của kiết tập 1. Rồi bộ này được khẩu truyền mà học thuộc lòng cho đến chép ra văn bản là các bộ luật của các bộ phái khác. Riêng bộ Tăng kỳ của Đại chúng bộ có thể được tụng ra trong Đại hội 2 của kiết tập 1, nhưng cũng có thể chỉ là thuộc lòng bộ luật của Đại hội 1. Thế giới Phật giáo thông sử (tập 1 trang 55) nói bộ luật này là của Thượng tọa bộ căn bản, nay không tìm được. Bộ luật của Paly là của hệ Phân biệt thuyết thiên về Đại chúng bộ, có sau cả luật Tăng kỳ.
Trên đây là nói 2 bộ luật của 2 bộ gốc là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Còn lại 4 bộ Ngũ phần, Thập tụng, Tứ phần và Hữu bộ thì toàn là hệ Thượng tọa bộ cả. Ít ra, chính trong những bộ luật hiện còn mà thấy đại thể giới pháp có thể nói là khá nhất vị.
(2) Tứ phần luật gọi đủ là Đàm vô đức Tứ phần luật. Đàm vô đức dịch nghĩa là Pháp tạng hay Pháp hộ, tên của bộ chủ Pháp tạng bộ. Theo Dị tông luận thì Pháp tạng bộ là thứ 9 trong hệ Thượng tọa bộ, xuất từ Hóa địa bộ và có trong bách kỷ 3 sau Phật nhập diệt. Luận ấy còn ghi thêm: những học thuyết của Pháp tạng bộ đa số lại đồng nhất với Đại chúng bộ. Ngài Khuy Cơ còn ghi Pháp tạng bộ nói có 5 pháp tạng: kinh, luật, luận, minh chú, Bồ tát. Tương truyền ngài Pháp tạng là 1 trong 5 đệ tử của tôn giả Ưu Ba Cúc Đa.
Trung Hoa thì đời Đường sắp đi, do ngài Đạo Tuyên khởi lập, Luật tông lấy Tứ phần luật làm căn bản. Lý do vì sao lựa chọn như vậy thì tôi thật chưa rõ, vì chưa đọc đến các bộ sách quan trọng của ngài Đạo Tuyên viết về Tứ phần luật, dựng lên Luật tông có học thuyết đàng hoàng. Việc tôi có ý nguyện làm từ lâu là dịch Tỳ kheo giới bản của Tứ phần luật và làm những gì liên hệ đến giới bản ấy. Trong ý nguyện ấy, hôm nay tôi làm một phần của phần việc thứ nhất.
Tỳ kheo giới bản cũng gọi là Giới kinh. Giới kinh ở đây có lúc chỉ cho Tứ phần luật, có lúc chỉ cho Tỳ kheo giới bản của Tứ phần luật, quan trọng hơn nữa có lúc chỉ cho các bài tụng của 7 đức Phật (7 đức Phật có 7 bài tụng là có 7 bản Giới kinh). Riêng đức Bổn sư Thích Ca thì 12 năm đầu của thì gian giáo hóa, Giới kinh chính là bài tụng được dịch ra 12 câu. Giới kinh này là cho chư tăng vô sự. Sau 12 năm mới có chư tăng hữu sự, tùy sự chế giới, thành ra Giới kinh có 250 giới nói theo Tứ phần luật.
Tỳ kheo giới bản của Tứ phần luật kể như có 4 bản. Bản 1 là Tứ phần luật Tỳ kheo hàm chú giới bản, số hiệu 1806 của Đại tạng kinh bản Đại chính, sẽ được gọi tắt là bản Đạo Tuyên. Ngài Đạo Tuyên, vị khai lập Luật tông Tứ phần luật, đã biên tập và lược giải giới bản Tỳ kheo của Tứ phần luật, với phong cách một vị tổ sư. Tôi quí và tin bản này nhất, không những lấy làm chính văn mà còn lấy làm tài liệu chính để hiểu và ghi chú chính văn.
Bản 2 có tên Tân san định Tứ phần tăng giới bản, cũng của ngài Đạo Tuyên. Bản này nằm trong Vạn 61/267 279. Dầu có bản này, so sánh, tôi vẫn chọn bản 1 làm chính văn.
Bản 3 là Tứ phần luật Tỳ kheo giới bản, do ngài Hoài Tố biên tập, số hiệu 1429 của Đại tạng kinh bản Đại chính, sẽ được gọi tắt là bản Hoài Tố. Còn bản 4 là Tứ phần tăng giới bản, mang số hiệu 1430 của Đại tạng kinh bản Đại chính.
Bản dịch của tôi lấy bản Đạo Tuyên làm chính văn. Nhưng chính văn ấy đến loại 7 và loại 8, tức 100 học pháp và 7 diệt tránh, thì lấy bản Hoài Tố. Lý do là vì tên của 2 loại này tuy mục lục bản Đạo Tuyên có ghi, nhưng chính văn bản ấy không ghi đầy đủ như 6 loại trước. Tên ấy tôi cũng không thấy cần thiết nữa, nên quyết định lấy chính văn bản Hoài Tố, ở đấy không ghi tên hay số gì cả, số là của bản Đạo Tuyên.
Cũng xin ghi rõ là trong khi dịch, các bản dịch của các Hòa thượng Trí thủ và Thiện Hòa cũng được tham khảo rất nhiều.
Nên nói thêm về tên giới điều. Trong 8 loại 250 giới, 6 loại đầu có 143 giới thì tên được dịch cả, còn 2 loại 7 và 8 có 107 giới thì, như mới nói, bản Đạo Tuyên không ghi đầy đủ nên tôi cũng không dịch. Nhưng điều đáng nói là có ý kiến cho rằng tên giới điều không nên tư vào chính văn giới điều. Nay tôi xét thấy có lắm chỗ chính tên giới điều làm cho giới điều rõ hơn lên, chưa kể cái tên làm cho giới điều như được nói tắt, nói ý chính. Chính sự xét thấy này mà thấy 6 loại trước cần tư tên, còn 2 loại sau sự ấy không cần thiết nữa.
Trong khi dịch tôi vấp 1 chữ. Ấy là chữ thời. Có không dưới 10 chữ. Chữ quan trọng và khó hiểu nhất là ở đoạn kết thúc 13 giới tăng tàn. Dò các bộ luật khác thấy Ngũ phần và Thập tụng viết thị pháp ưng nhĩ (giới này phải thế), Tăng kỳ viết thị sự pháp nhĩ (việc này là thế đấy), Hữu bộ viết thử thị xuất tội pháp (đó là cách giải tội). Như vậy chữ thời có thể hiểu là trường hợp. Thị vị thời đã được dịch đó là trường hợp này. Những chữ thời sau đó đại khái cũng được dịch là trường hợp cả.
(3) Tỳ kheo giới của Tứ phần luật có 250 giới điều, tự chia ra 8 loại, nhắc lại, 8 loại ấy là một, khí, có 4; hai, tăng tàn, có 13; ba, bất định, có; bốn, xả đọa, có 30; năm, đọa, có 90; sáu, hối quá, có 4; bảy, học pháp, có 100; tám, diệt tránh, có 7. Có ý kiến nói loại 8 không phải là giới. Nói như vậy xét ra không chính xác. Loại 8 cũng là giới điều, ở chỗ mỗi giới điều được lập ra do mỗi trường hợp khác nhau, thêm nữa, khi thi hành mỗi giới điều hay nhiều giới điều này rồi mà ai ngoan cố thì bị nghiêm trị hơn nữa.
Nay đem 8 loại 250 giới mà xét chung thì thấy có thể chia ra 3 loại. Loại một, là những giới điều phạm vào thì mất tư cách Tỳ kheo, không còn sám hối hay giải tội gì mà cứu vãn được nữa. Loại hai là những giới điều mà phạm vào thì tư cách Tỳ kheo chỉ còn một chút sống thừa, phải được cử tội, xử tội và giải tội bởi 20 vị Tỳ kheo là ít nhất mới mong cứu vãn. Loại ba đến loại tám là những giới điều chỉ cần được cử tội, xử tội và giải tội bởi 10 cho đến 1 vị Tỳ kheo là tư cách Tỳ kheo được cứu vãn.
Dầu phân loại như vậy mà 250 giới vẫn chưa mất cái cảm giác vụn vặt, mênh mang, nên nay tôi gặp loại là qui nạp lại, thì 250 giới có thể qui nạp như sau. Trong sự qui nạp này nên chú ý mấy chi tiết. Chi tiết 1 là đánh số giới điều, tức 1/1 là giới 1 của loại 1, cho đến 8/7 là giới 7 của loại 8. Chi tiết 2 là các mục qui nạp thì gặp loại là qui nạp, chứ không có thứ tự hay chính yếu thứ yếu gì ở đây. Chi tiết 3 là những mục ít giới điều thì gọi chung là linh tinh, nhưng có những mục chỉ có 1 giới điều mà vẫn để riêng vì tính cách quan trọng giới điều ấy.
Dưới đây là qui nạp 250 giới điều.
Liên hệ đến dâm: 1/1, 2/1, 2/2, 2/3, 2/4, 2/5, 3/1, 3/2.
Liên hệ đến đạo: 1/2, 4/30.
Liên hệ đến sát: 1/3, 5/19, 5/61, 5/62.
Liên hệ đến vọng: 1/4, 2/8, 2/9, 5/1, 5/2, 5/3, 5/7, 5/8, 5/12, 5/13, 5/68, 5/80.
Liên hệ đến y: 4/1, 4/2, 4/3, 4/4, 4/5, 4/6, 4/7, 4/8, 4/9, 4/10, 4/23, 4/24, 4/27, 4/28, 4/29, 5/60, 5/88, 5/89, 5/90, 7/1, 7/2.
Liên hệ đến cụ: 4/11, 4/12, 4/13, 4/14, 4/15, 4/16, 4/17, 5/87.
Liên hệ đến việc học Luật: 5/71, 5/72, 5/73, 5/75, 5/76.
Liên hệ đến Phật: 7/60, 7/61, 7/62, 7/63, 7/64, 7/65, 7/66, 7/67, 7/68, 7/69, 7/70, 7/71, 7/72, 7/73, 7/74, 7/75, 7/76, 7/77, 7/78, 7/79, 7/80, 7/81, 7/82, 7/83, 7/84, 7/85.
Liên hệ đến sự ăn: 5/31, 5/32, 5/33, 5/34, 5/35, 5/37, 5/38, 5/39, 5/40, 5/41, 5/42, 6/1, 6/2, 6/3, 6/4, 7/26, 7/27, 7/28, 7/29, 7/30, 7/31, 7/32, 7/33, 7/34, 7/35, 7/36, 7/37, 7/38, 7/39, 7/40, 7/41, 7/42, 7/43, 7/44, 7/45, 7/46.
Liên hệ đến tín đồ: 2/12, 7/3, 7/4, 7/5, 7/6, 7/7, 7/8, 7/9, 7/10, 7/11, 7/12, 7/13, 7/14, 7/15, 7/16, 7/17, 7/18, 7/19, 7/20, 7/21, 7/22, 7/23, 7/24, 7/25, 7/48.
Liên hệ đến sự diệt tránh: 8/1, 8/2, 8/3, 8/4, 8/5, 8/6, 8/7.
Liên hệ đến sự thuyết pháp: 7/52, 7/53, 7/54, 7/55, 7/56, 7/57, 7/58, 7/59, 7/86, 7/87, 7/88, 7/89, 7/90, 7/91, 7/92, 7/96, 7/97, 7/98, 7/99, 7/100.
Liên hệ đến Tỳ kheo ni: 5/21, 5/22, 5/23, 5/24, 5/25, 5/26, 5/27, 5/28, 5/29.
Liên hệ đến nữ nhân: 5/4, 5/9, 5/30, 5/43, 5/44, 5/45.
Liên hệ đến sự cư xử trong chư tăng với nhau: 4/25, 5/14, 5/15, 5/16, 5/17, 5/36, 5/46, 5/53, 5/55, 5/58, 5/59, 5/63, 5/64, 5/66, 5/69, 5/70, 5/74, 5/77, 5/78, 5/79.
Liên hệ đến rượu: 5/51.
Liên hệ đến người chưa thọ đại giới: 5/5, 5/6, 5/65.
Liên hệ đến sự phá tăng: 2/10, 2/11.
Liên hệ đến sự ngoan cố: 2/13, 5/54.
Liên hệ đến bát: 4/21, 4/22, 7/95.
Linh tinh: của và của báu: 4/18, 4/19, 4/20, 5/82; làm phòng nhà: 2/6, 2/7, 5/20; thuốc: 4/26, 5/47; đào đất: 5/10; chặt cây: 5/11; giường nằm: 5/18; 5/84, 5/85; đùa giỡn: 5/52, 7/93, 7/94; đốt lửa: 5/57; quân đội: 5/48, 5/49, 5/50; giặc: 5/67; vua: 5/81; đi không phải lúc: 5/83; làm ống kim: 5/86; tắm: 5/56; vệ sinh: 7/47, 7/49, 7/50, 7/51.
Nếu qui nạp lại lần nữa thì 250 giới chỉ thuộc vào 2 loại mà thôi, ấy là loại giới luật và loại oai nghi. Loại giới luật là những giới điều cấm tội lỗi thật sự. Loại oai nghi là những giới điều cấm cử động bất xứng. Trong 8 loại của 250 giới, loại 1 là giới luật, loại 7 là oai nghi, còn lại là cả hai.
(4) Cuộc đời như cuộc đời của Phật, nếu có ký sự thì ký sự ấy lượng và chất phải đạt đến tầm cỡ bậc nhất nhì. Thế nhưng ký sự ấy chỉ nằm rải rác trong các kinh luật. Chỉ có một cạnh khía ký sự rất rõ rệt. Đó là sự sinh hoạt giới luật của Phật và chư tăng của Ngài. Sinh hoạt giới luật, từ ngữ này muốn nói sinh hoạt của Phật và chư tăng của Ngài thì toàn bộ là nhắm vào cuộc sống viễn ly ác pháp. Cạnh khía này luật tạng của bộ phái nào cũng là bộ ký sự khá về lượng cũng như chất.
Chư tăng của Phật trong 12 năm đầu gọi là vô sự Tỳ kheo: Tỳ kheo không có gì rắc rối cả. Giới luật cho chư tăng thì gian này chỉ là bài tụng mà có thể nói vắn tắt là giữ sạch thân miệng ý. Sau 12 năm mới có kẻ hữu sự, mới có rắc rối. Rắc rối nhất là cái nhóm 6 người gọi là lục quần Tỳ kheo. Rồi tùy trường hợp rắc rối xảy ra mà có sự qui định ứng phó lại. Mỗi lần ứng phó là thành một giới điều. Như vậy cái số lượng 250 giới điều không phải nhiều nhiệc gì đối với tập thể mà thường xuyên đã có cả ngàn, lại trải qua thì gian ba bốn chục thập kỷ. Nhìn như thế này thì không những thấy 250 không nhiều, mà còn nhìn thấy cái phàm trong cái thánh của chư tăng thời Phật, cái phàm chẳng phàm gì nhiều và nặng.
Giới điều tuy nhiều, mỗi giới điều lại có khai giá (linh động và hạn chế), nhưng căn bản của giới luật chỉ là thiểu dục tri túc. Thiểu dục là ít ham muốn đối với những gì chưa có. Tri túc là biết vừa đủ đối những gì đã có. Có thiểu dục tri túc thì không phạm giới. Giữ giới có nghĩa là thiểu dục tri túc chứ không gì khác.
Nhưng Tỳ kheo giới được truyền thọ như thế nào? Tỳ kheo giới được truyền thọ, và lãnh thọ, giữa người sống với người sống, người sống mà phải hiện diện mới đúng phép. Số người hiện diện truyền thọ thường gọi là thập sư. Nghĩa là phải có 10 vị Tỳ kheo hiện diện thì việc truyền thọ Tỳ kheo giới mới thành tựu. Qui định này cho thấy Tỳ kheo giới khi được lãnh thọ rồi thì sẽ được và phải được hộ trì, giám sát, được cử tội, xử tội và giải tội bởi chính những vị Tỳ kheo khác mà trong đó có các vị thầy đã truyền thọ.
Không những thọ giới và trì giới dựa trên cái lực của các vị thầy hiện diện, mà sự sám hối khi phạm giới lại càng là như vậy. Phạm giới Tỳ kheo thì tùy giới đã phạm mà sám hối trước 1 cho đến 20 vị Tỳ kheo khác, nghĩa là cũng người hiện diện đối với người hiện diện chứ không phải khơi khơi mà được.
Thêm nữa, Luật không cho Sa di đọc Tỳ kheo giới trước khi được thọ giới ấy. Vì thẩm định Sa di có hay không có tư cách thọ và trì Tỳ kheo giới thì không phải Sa di tự thẩm định. Mà trách nhiệm là vị thầy. Vị thầy phải giáo dục cho Sa di có tư cách thọ và trì Tỳ kheo giới, và thẩm định tư cách ấy. Không phải Sa di tự coi Tỳ kheo giới, tự cho mình có tư cách thọ và trì giới ấy mà được. Do vậy, không ở đâu mà cái nghĩa thầy trò được nói cho bằng trong luật. "Hòa thượng tự nhiên sinh tâm thương nhớ đệ tử như con, đệ tử tự nhiên sinh tâm kính trọng Hòa thượng như cha, siêng năng dạy bảo, lại thêm tôn kính, thì có khả năng làm cho Phật pháp rộng thêm, làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài" (Ngũ phần, Chính 22/110).
Ngày nay có cái hiện tượng suy đồi, ấy là thọ giới rồi là rồi, thầy không còn biết đến trò, trò chẳng còn biết đến thầy. Đôi bên chẳng còn vương vấn gì đến nhau, không còn mà cũng không muốn giữ một trách nhiệm gì với nhau. Trong khi thọ Tỳ kheo giới là con người được sinh ra một lần nữa, sinh ra giới thân tuệ mạng. Ấy vậy mà không mấy ai lấy làm quan trọng sự được sinh ra ấy cả.
(5) Tỳ kheo giới với Bồ tát giới có tương quan không, và tương quan thì như thế nào? Hãy đem 2 giới bản Tỳ kheo của Tứ phần và Bồ tát của Phạn võng mà xét thì thấy có những điều đáng nói sau đây.
Một, Tỳ kheo giới truyền thọ do người hiện diện cả. Yết ma đắc giới là tăng Yết ma. Rồi nếu phạm giới thì cử tội, xử tội và giải tội đều là tăng Yết ma. Sám hối cũng là đối với tăng hiện diện. Bồ tát giới thì cần nhất là vị thầy vừa là giáo thọ vừa là Hòa thượng, còn Yết ma đắc giới là tác bạch thập phương chư Phật Bồ tát, nhưng sám hối thì cực kỳ khó khăn.
Hai, Bồ tát giới lấy sự phát Bồ đề tâm làm căn bản. Có Bồ đề tâm thì có đủ giới pháp, mất Bồ đề tâm thì giới pháp không những dễ vi phạm, mà có giữ cũng không có ý nghĩa vì vô thượng Bồ đề mà giữ. Tỳ kheo giới thì tách rời tất cả thân nghiệp và ngữ nghiệp cần tách rời (Câu xá, Chính 29/73), nên thân và miệng mà tội lỗi hay bất xứng thì đã là phạm giới.
Ba, Tỳ kheo giới thì người lãnh thọ bị khảo sát giá nạn rất kỹ phải là người mà quá khứ, bề trong, bề ngoài và hoàn cảnh đều tương đối coi được mới được thọ giới. Bồ tát giới không cần đến như vậy, bởi vì trừ Tỳ kheo Bồ tát giới là tăng bảo, mọi bề ngoài tôn nghiêm đã phải có khi thọ Tỳ kheo giới rồi, còn mọi người ai cũng có thể được thọ cái giới pháp bản nguyên thanh tịnh của mình, miễn là có thể phát Bồ đề tâm và hiểu được tiếng nói của vị thầy truyền giới.
Bốn, Tỳ kheo giới có cái lý do giữ giới là để tránh đời chê ghét (tị thế cơ hiềm). Chính cái lý do này là cái phần lợi tha của Bồ tát giới. Và chính trong ý nghĩa này mà nói là giáo hóa chúng sinh, mà nói là duy trì Phật pháp.
(6) Điều phải nói ở đây là sự phá tăng. Phá tăng là phá Yết ma tăng và phá pháp luân tăng. Phá Yết ma tăng là dầu chỉ có 4 vị Tỳ kheo mà 1 người không đồng chúng hòa hợp hay tập hợp, thì sự Yết ma bất thành, mọi tăng sự, kể cả sự thuyết giới, đều không thể cử hành. Phá pháp luân tăng là dầu chỉ có 9 Tỳ kheo mà 1 người đứng ra chia rẽ, kéo theo mình 4 người (để đủ số Tỳ kheo làm Yết ma) rồi tự xưng giáo chủ, xướng ra giáo pháp và lập ra giáo đoàn riêng, nói cách khác là biệt lập Phật giáo riêng (hay khuynh đảo tổ chức của Phật giáo làm thành tổ chức của mình).
Phá tăng, như vậy, là phá hoại Phật giáo. Theo tôn giả Thế Thân, loại tội nặng nhất là 5 tội vô gián, trong 5 tội ấy tội phá tăng, nhất là phá pháp luân tăng, là tội nặng nhất, vì "thương tổn pháp thân của Phật". Phá tăng như vậy bản thể là cuống ngữ. Kẻ phá tăng phải là Tỳ kheo, không phải tại gia hay Tỳ kheo ni mà làm được, là kẻ tịnh hạnh chứ không phải người phạm giới, bởi vì phạm giới thì nói không uy tín (Câu xá, Chính 29/93).
Tôn giả Thế Thân nói còn thiếu một điều, ấy là những kẻ này hay lợi dụng chính quyền hoặc để cho chính quyền lợi dụng. Kẻ ấy, xưa kia, thời Phật là Đề Bà. Ngày nay, thừa kế Đề Bà cũng không phải thiếu người. Và cái tội phá tăng nặng đến nỗi phạm vào thì hết còn nói đến thọ giới trì giới gì nữa. Ấy thế nhưng có điều lạ là Tỳ kheo giới cũng như Bồ tát giới đều đã không nghiêm khắc đúng mức về tội này.
Bồ tát giới thì những gì liên quan đến sự phá tăng, thí dụ các điều 47 và 48, chỉ để vào loại giới pháp nhẹ. Tỳ kheo giới thì như các điều 2/10 và 2/11, chỉ xếp vào loại tăng tàn, mặc dầu trường hợp có ra 2 giới điều ấy là chính sự phá tăng của Đề Bà.
Ngày trước, khi dịch giải Bồ tát giới Phạn võng, tôi đã muốn nêu điều này lên. Nhưng rồi lúc đó tôi không làm. Nay nêu lên điều này không phải như một nghi vấn, mà là sự phá tăng ngày nay có chứ không phải không có, vậy mà giới pháp không lên án đúng mức thì làm sao cảnh tỉnh những kẻ Đề Bà mới, những kẻ tùng đảng với Đề Bà mới?

3/ Phần Đầu Tỳ kheo Giới
Cúi đầu kính lạy
chư Phật, Phật pháp
và Tỳ kheo tăng.
Nay tụng Giới kinh (1)
là để làm cho
Phật pháp thường còn.
Giới như biển cả
không có bờ mé,
lại như ngọc báu
cầu hoài không chán.
Muốn giữ tài sản
của các Thánh giả (2)
đại chúng họp lại
nghe tôi tụng Giới.
Muốn trừ bốn thứ
gọi là tội khí,
muốn diệt mười ba
tội lỗi tăng tàn,
muốn ngăn ba mươi
tội lỗi xả đọa (3),
đại chúng họp lại
nghe tôi tụng Giới.
Đức Tỳ Bà Thi,
cùng đức Thi Khí,
đức Tỳ Xá Phù,
đức Câu Lưu Tôn,
đức Câu Na Hàm,
cùng đức Ca Diếp
và đức Thích Ca,
chư Phật như vậy
đã thuyết Giới kinh (4).
Nay tôi tụng lại
Giới kinh như vậy,
đại chúng cùng nghe.
Ví như có người
chân đã thương tổn
thì không thể nào
tự đi đến đâu,
người nào phá giới
thì cũng như vậy
không thể sinh trong
chư thiên nhân loại.
Muốn sinh chư thiên
hay sinh nhân loại,
thì phải giữ lấy
đôi chân giới pháp,
đừng để có điều
vi phạm thương tổn.
Như người đánh xe
đi vào đường hiểm
thì lo xe ấy
rơi chốt gãy trục,
người mà phá giới
thì cũng như vậy,
đối diện cái chết
lòng đầy lo sợ.
Như người soi gương
thấy đẹp thì thích
thấy xấu thì rầu,
tụng giới cũng vậy
giới toàn thì mừng
giới hỏng thì lo.
Hai quân đánh nhau
ai gan thì tiến
ai khiếp thì thoái,
tụng giới cũng vậy
trong sạch: yên tâm
dơ bẩn: lo sợ.
Trong cả mọi người
vua là hơn hết,
trong các dòng nước
biển là hơn hết,
trong các sao đêm
trăng là hơn hết,
trong các vị thánh
Phật là hơn hết,
trong các giới luật (5)
Giới kinh hơn hết,
nên đức Thế Tôn
đã qui định rằng
cứ mỗi nửa tháng
phải tụng một lần.
Tăng hòa hợp (6) không? Đáp: tăng hòa hợp.
Tăng tập hợp chưa? Đáp: tăng tập hợp.
Người chưa thọ đại giới đã ra chưa? Nếu có thì bảo ra và đáp: người chưa thọ đại giới đã ra; nếu không thì đáp: trong đây không có người chưa thọ đại giới.
Các vị Tỳ kheo không đến đây có nói dữ dục và thanh tịnh (7) không? Nếu có thì đáp có và thưa đúng cách, nếu không thì đáp trong đây không có người nói dữ dục và thanh tịnh.
Chúng Tỳ kheo ni phái ai đến? Nếu có thì đáp có và thưa đúng cách, nếu không thì đáp trong đây chúng Tỳ kheo ni không phái ai đến.
Hôm nay tăng hòa hợp để làm gì? Đáp: để Yết ma tụng giới.
Đại đức tăng nghe cho, hôm nay là ngày 15, ngày tăng bố tát tụng giới, nếu tăng thấy đến lúc (8), tăng chấp thuận, thì cử hành bố tát tụng giới. Xin tác bạch như vậy. Tác bạch thành không? Đáp: thành (9).

4/ Tỳ kheo Giới: Lời Mở Đầu
Bạch chư đại đức, nay tôi sắp tụng Ba La Đề Mộc Xoa. Chư vị Tỳ kheo cùng tập hợp một chỗ. Chư vị hãy lắng nghe, và nhớ nghĩ cho khéo. Nếu tự biết có phạm giới thì phải tự sám hối, không phạm giới thì hãy im lặng. Vì im lặng mà biết chư đại đức thanh tịnh. Nếu có ai hỏi thì cũng trả lời như vậy. Thế nên vị Tỳ kheo ở trong đại chúng được hỏi đến lần thứ 3, và nhớ nghĩ mình có tội, mà không sám hối, thì bị tội cố ý nói dối. Mà nói dối thì Phật đã dạy là sự cản trở thánh đạo (10). Nếu vị Tỳ kheo nhớ nghĩ mình có tội và muốn được thanh tịnh thì phải sám hối. Sám hối thì yên vui.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói lời nói đầu của Giới kinh. Nay xin hỏi chư đại đức, trong lời nói đầu ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong lời nói đầu ấy chư vị thanh tịnh cả, vì chư vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc (11) như vậy.

5/ Bốn Giới Khí
Bạch chư đại đức, 4 giới Ba la di (12) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong giới kinh.
Thứ 1 giới đại dâm dục. Nếu Tỳ kheo đồng giới pháp với Tỳ kheo khác (12b), không xả giới, nhưng giới kém mà không tự hối, phạm vào sự bất tịnh (13) cho đến cùng với súc vật, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo, không còn được sống chung (14) với chư tăng.
Thứ 2 giới đại trộm cắp. Nếu Tỳ kheo ở trong xóm làng hay nơi vắng vẻ, lấy của người ta không cho với ý thức ăn trộm; tùy tội lấy của không cho mà bị vua, hay đại thần của vua, bắt, giết, trói, đuổi ra khỏi xứ, mắng rằng anh là giặc, anh ngu si, anh không biết gì, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo, không còn được sống chung với chư tăng.
Thứ 3 giới đại sát hại. Nếu Tỳ kheo cố ý tự tay sát hại mạng người, hoặc cầm dao đưa cho người, hoặc khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, rằng quái lạ, anh kia, sống khốn nạn như vậy làm gì, thà chết, đừng sống; với ý thức như vậy mà nghĩ mọi cách để khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo, không còn được sống chung với chư tăng.
Thứ 4 giới đại vọng ngữ. Nếu Tỳ kheo thật không biết gì mà tự xưng tôi được pháp của bậc thượng nhân, tôi đã nhập vào pháp siêu việt của thánh trí, tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy; qua thì gian khác, hoặc được hỏi hoặc không được hỏi, mà muốn tự thanh tịnh nên nói rằng tôi thật không thấy không biết gì mà nói biết nói thấy, thì, trừ tăng thượng mạn (15), phạm Ba la di của Tỳ kheo, không còn được sống chung với chư tăng.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 4 giới Ba la di. Nếu Tỳ kheo phạm vào mỗi một Ba la di, thì không còn được sống chung với chư tăng. Như khi chưa thọ đại giới, thọ đại giới rồi mà vi phạm thì cũng vậy. Nên Tỳ kheo bị tội Ba la di thì không nên sống chung với chư tăng. Vậy nay xin hỏi chư đại đức, trong 4 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 4 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

6/ Mười Ba Giới Tăng Tàn
Bạch chư đại đức, 13 giới Tăng già bà thi sa (16) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới cố làm xuất tinh. Nếu Tỳ kheo cố ý lộng âm xuất tinh (17) thì, trừ chiêm bao, phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 2 giới chạm thân nữ nhân. Nếu Tỳ kheo với ý thức dâm dục mà chạm nhau với thân nữ nhân, hoặc nắm tay, hoặc nắm tóc, hoặc chạm vào mỗi một thân phần, thì phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 3 giới nói năng thô tục (18). Nếu Tỳ kheo với ý thức dâm dục mà nói năng thô tục dâm đãng với nữ nhân; nói năng thô tục dâm đãng thì phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 4 giới đòi hiến dâm dục (19). Nếu Tỳ kheo với ý thức dâm dục mà đối diện với nữ nhân tự ca tụng mình, rằng cô em, tôi tu phạm hạnh, giữ giới, tinh tiến, tu các thiện pháp; cô em hãy đem sự dâm dục mà hiến cho tôi, hiến như vậy là hơn hết, thì phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 5 giới làm người mai mối. Nếu Tỳ kheo qua lại đôi bên để làm mai mối, đem ý người nam nói với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, để làm cho họ lấy nhau hay tư thông với nhau, thì dầu chỉ chốc lát cũng phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 6 giới làm nhà (20) quá mức. Nếu Tỳ kheo tự tìm cách làm nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho mình, thì phải làm đúng mức. Mức ở đây là dài bằng 12 gang tay của Phật, rộng bằng 7 gang tay của Ngài. Lại phải thỉnh chư Tỳ kheo chỉ định nơi chỗ. Chư Tỳ kheo chỉ định nơi chỗ không tai nạn và không chướng ngại. Nếu Tỳ kheo nơi chỗ tai nạn và chướng ngại mà tự tìm cách làm nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho mình, không thỉnh chư Tỳ kheo chỉ định nơi chỗ, lại làm quá mức, thì phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 7 giới không thỉnh chỉ định (21). Nếu Tỳ kheo muốn làm nhà lớn mà có thí chủ, làm cho mình, thì phải thỉnh chư Tỳ kheo đến chỉ định nơi chỗ. Chư Tỳ kheo nên chỉ định nơi chỗ không tai nạn và không chướng ngại. Nếu Tỳ kheo nơi chỗ tai nạn và chướng ngại mà làm nhà lớn, có thí chủ, làm cho mình, nhưng không thỉnh chư Tỳ kheo đến chỉ định nơi chỗ, thì phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 8 giới vu khống phỉ báng (22). Nếu Tỳ kheo vì tức giận, đối với vị Tỳ kheo không phạm tội Ba la di mà, một cách vô căn cứ, phỉ báng vị ấy phạm tội Ba la di, phỉ báng với ý thức muốn phá hoại sự thanh tịnh của vị ấy; rồi trong thì gian khác, được hỏi hay không được hỏi, Tỳ kheo biết đó là sự phỉ báng vô căn cứ, và nói rằng vì tôi tức giận nên phỉ báng như vậy. Tỳ kheo phỉ báng như vậy thì phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 9 giới xuyên tạc phỉ báng (23). Nếu Tỳ kheo vì tức giận nên lấy một cạnh khía của việc khác, đối với vị Tỳ kheo không phạm Ba la di mà, một cách vô căn cứ, phỉ báng rằng phạm tội Ba la di, với ý thức phá hoại sự thanh tịnh của vị ấy; đến thì gian khác, được hỏi hay không được hỏi, Tỳ kheo ấy biết mình lấy một cạnh khía của việc khác, tự nói vì tôi tức giận nên phỉ báng như vậy, thì phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 10 giới phá tăng hòa hợp (24). Nếu Tỳ kheo muốn phá hoại tăng hòa hợp (25) nên hành động mọi cách phá hoại tăng hòa hợp, chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên trì không bỏ. Các vị Tỳ kheo nên can gián Tỳ kheo ấy, rằng đại đức, đừng phá hoại tăng hòa hợp, đừng hành động mọi cách phá hoại tăng hòa hợp, đừng chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên trì không bỏ. Đại đức, hãy cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng học một thầy, như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Tỳ kheo ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm Tăng già ba thi sa.
Thứ 11 giới hỗ trợ phá tăng (26). Nếu Tỳ kheo ấy có phe cánh, một Tỳ kheo, hai Tỳ kheo, ba Tỳ kheo cho đến vô số Tỳ kheo; những Tỳ kheo phe cánh này nói với các vị Tỳ kheo, rằng chư đại đức, xin đừng can gián Tỳ kheo ấy, Tỳ kheo ấy là Tỳ kheo nói đúng giáo pháp, Tỳ kheo nói đúng giới luật, Tỳ kheo ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỳ kheo ấy nói chúng tôi chấp nhận. Các vị Tỳ kheo trả lời: các đại đức, đừng nói như vậy, rằng Tỳ kheo ấy là Tỳ kheo nói đúng giáo pháp, Tỳ kheo nói đúng giới luật, Tỳ kheo ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỳ kheo ấy nói chúng tôi chấp nhận. Bởi vì Tỳ kheo ấy không phải là Tỳ kheo nói đúng giáo pháp, không phải là Tỳ kheo nói đúng giới luật. Các đại đức, đừng có ý muốn phá hoại tăng hòa hợp; các đại đức, hãy thích thú tăng hòa hợp. Các đại đức, hãy cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng học một thầy, như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Những Tỳ kheo ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để những Tỳ kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 12 giới hoen ố tín đồ (27). Nếu Tỳ kheo sống trong xóm làng hay thành thị mà làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu (28), làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe. Các vị Tỳ kheo nói với Tỳ kheo ấy, rằng đại đức, đại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe; đại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu thì nay hãy đi xa khỏi xóm làng này, đừng nên ở đây nữa. Tỳ kheo ấy nói với các vị Tỳ kheo, với lời nói như vầy: chư đại đức, các vị có tham, có sân, có si, có sợ; có cái việc những Tỳ kheo đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Các vị Tỳ kheo can rằng, đại đức, đừng nói như vậy, rằng chư Tỳ kheo có tham, có sân, có si, có sợ, có cái việc những Tỳ kheo đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Bởi vì chư Tỳ kheo không tham, không sân, không si, không sợ. Đại đức đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe. Tỳ kheo ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm Tăng già bà thi sa.
Thứ 13 giới ngoan cố chống cự (29). Nếu Tỳ kheo tính tình ngoan cố, không nghe ai hết; trong giới luật, các vị Tỳ kheo đã can gián đúng phép mà bản thân Tỳ kheo ấy không chịu sự can gián ấy, bằng cách nói rằng, chư đại đức, đừng hướng về tôi mà nói tôi tốt hay tôi xấu, tôi cũng không hướng về chư đại đức mà nói các ngài tốt hay các ngài xấu. Chư đại đức hãy thôi đi, đừng luôn luôn can gián tôi. Các vị Tỳ kheo can gián Tỳ kheo ấy, rằng đại đức, đừng nên chính mình không chịu ai can gián. Đại đức nên chính mình chịu can gián. Đại đức hãy can gián chư Tỳ kheo một cách đúng phép, chư Tỳ kheo cũng can gián đại đức một cách đúng phép. Làm như vậy thì đệ tử của Phật được tăng ích nhờ can gián cho nhau, chỉ dạy cho nhau, sám hối với nhau. Tỳ kheo ấy khi được can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm Tăng già bà thi sa.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 13 giới Tăng già bà thi sa mà 9 giới trước thì mới phạm là thành tội, 4 giới sau thì sau lần can gián thứ 3 mới thành tội. Nếu Tỳ kheo phạm mỗi một giới, biết mình phạm mà cố che giấu, thì chư tăng phải buộc Tỳ kheo ấy thi hành phép sống riêng (30). Thi hành phép sống riêng rồi phải thi hành thêm phép hoan hỷ (31) trong 6 đêm ngày. Thi hành phép hoan hỷ rồi chư tăng giải tội cho. Phải giữa 20 vị Tỳ kheo mà giải tội cho Tỳ kheo ấy; nếu thiếu 1 vị, không đủ 20 vị Tỳ kheo, thì có giải tội đi nữa, tội của Tỳ kheo ấy cũng không giải được, mà chư tăng cũng đáng khiển trách. Đó là trường hợp (32) này. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 13 giới Tăng già bà thi sa ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 13 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

7/ Hai Giới Bất Định
Bạch chư đại đức, 2 giới bất định (33) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới ngồi ở chỗ khuất. Nếu Tỳ kheo cùng nữ nhân ngồi riêng ở chỗ khuất, chỗ che, chỗ ngăn, chỗ có thể hành dâm, mà nói những lời phi giới pháp. Có người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm (34), nói Tỳ kheo ấy phạm 1 trong 3 tội sau đây, tội Ba la di, tội Tăng già bà thi sa, tội Ba dật đề; Tỳ kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như vậy thì phải trị theo 1 trong 3 tội sau đây, tội Ba la di, tội Tăng già bà thi sa, tội Ba dật đề. Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà trị tội Tỳ kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất định.
Thứ 2 giới ngồi ở chỗ trống. Nếu Tỳ kheo cùng nữ nhân ngồi ở chỗ trống, chỗ không thể hành dâm, mà nói thô tục. Có người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói Tỳ kheo ấy phạm 1 trong 2 tội sau đây, tội Tăng già bà thi sa, tội Ba dật đề; Tỳ kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như vậy thì phải trị theo 1 trong 2 tội sau đây, tội Tăng già bà thi sa, tội Ba dật đề. Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà trị tội Tỳ kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất định.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 2 giới bất định. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 2 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 2 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

8/ Ba Mươi Giới Xả Đọa
Bạch chư đại đức, 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề (35) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới cất y quá hạn. Nếu Tỳ kheo 3 y (36) đã hoàn chỉnh, y công đức (37) đã xả, mà cất giữ trường y (38), thì không làm tịnh thí (39) cũng được cất giữ, nhưng quá 10 ngày thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 2 giới rời y mà ngủ. Nếu Tỳ kheo 3 y hoàn chỉnh, y công đức đã xả, mà trong 3 y rời 1 y ngủ khác chỗ (39b), thì, trừ được tăng Yết ma (40) cho phép, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 3 giới cất vải quá hạn. Nếu Tỳ kheo 3 y hoàn chỉnh (41), y công đức đã xả, nhưng Tỳ kheo ấy được vải phi thời, vậy cần thì cứ nhận, nhận rồi may y cho mau thành. Nếu vải đủ thì tốt, nếu vải không đủ thì được phép cất lại 1 tháng, chờ cho đủ vải. Nếu cất lại quá hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 4 giới lấy y không thân (42). Nếu Tỳ kheo lấy y của Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình, thì, trừ sự trao đổi, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 5 giới bảo giặt y cũ (43). Nếu Tỳ kheo bảo Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình giặt y cũ, hoặc nhuộm hoặc vỗ, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 6 giới xin người y mới (44). Nếu Tỳ kheo xin y mới nơi cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình, thì, trừ trường hợp khác, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Trường hợp khác là nếu y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, như vậy gọi là trường hợp khác.
Thứ 7 giới lấy vải quá phận. Nếu Tỳ kheo y bị mất, bị cướp, bị cháy, bị trôi, và nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình tự ý xin cho nhiều vải, thì Tỳ kheo ấy nên nhận vải ấy theo sự biết vừa đủ. Nếu nhận nhiều hơn thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 8 giới xin thêm tiền y (45). Nếu Tỳ kheo có cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho Tỳ kheo ấy, nói rằng sắm số tiền may y như vậy để cúng cho Tỳ kheo tên như vậy. Tỳ kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý (45b) vậy mà vì muốn được y tốt nên đến nhà cư sĩ, nói như thế này: tốt lắm, cư sĩ, hãy vì tôi mà mua sắm cái y như vậy cho tôi. Như vậy mà được y thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 9 giới khuyên chung tiền lại (46). Nếu Tỳ kheo có 2 cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho Tỳ kheo ấy, nói rằng mua y như vậy để cúng cho Tỳ kheo tên như vậy. Tỳ kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, vậy mà vì muốn được y tốt nên đến 2 nhà cư sĩ nói như vầy: tốt lắm, cư sĩ, hãy sắm tiền mua y như vậy, chung nhau mà mua cho tôi 1 cái y. Như vậy mà được y thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 10 giới đòi y quá hạn. Nếu Tỳ kheo có vua, đại thần, bà la môn, cư sĩ và vợ cư sĩ, phái người đưa số tiền sắm y đến cho Tỳ kheo ấy, nói rằng hãy cầm tiền sắm y này đến đưa cho vị Tỳ kheo tên như vậy. Người được phái đến chỗ Tỳ kheo ấy, nói với Tỳ kheo ấy, rằng bạch đại đức, nay con đem tiền sắm y đến cho ngài, xin ngài nhận lấy. Tỳ kheo ấy nói như thế này với người được phái, rằng tôi không nên nhận số tiền sắm y này; nếu khi tôi cần y thì phải đúng và thanh tịnh mới nhận được. Người được phái nói với Tỳ kheo ấy, rằng bạch đại đức, ngài có người giúp việc không? Tỳ kheo ấy nói có; có người ở trong chùa kia, có người nam cư sĩ kia, họ là những người giúp việc của các Tỳ kheo, thường giúp việc cho các ngài. Bấy giờ người được phái đi đến nơi người giúp việc, giao số tiền sắm y, rồi trở lại chỗ Tỳ kheo ấy, nói như vầy: bạch đại đức, người giúp việc tên như vậy, mà ngài đã chỉ, con đã giao cho người ấy số tiền sắm y. Khi nào đại đức thấy đúng lúc thì xin ngài đến người ấy, sẽ sắm được y. Tỳ kheo ấy khi cần y thì nên đến người giúp việc mà, lần thứ hai và lần thứ ba, nhắc cho người ấy nhớ, bằng cách nói rằng tôi cần y; nếu lần thứ hai và lần thứ ba nhắc cho người ấy nhớ mà được y thì tốt. Nếu không được y thì lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu, hãy yên lặng đứng trước người ấy; nếu lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu, yên lặng đứng trước người ấy mà được y thì tốt. Nếu không được y mà đòi quá giới hạn nói trên để cho được y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Nếu không được y thì tự mình đi hay phái người đi, đến nơi người cho tiền sắm y mà nói, rằng trước đây người phái người đem tiền sắm y đến cho tôi, Tỳ kheo tên như vậy; nhưng rốt cuộc tôi không được y, vậy người hãy đi lấy về, đừng để mất đi. Đó là trường hợp có thể làm.
Thứ 11 giới ngọa cụ tơ tằm. Nếu Tỳ kheo kiếm tơ tằm xen với tơ lụa mà làm ngọa cụ mới, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 12 giới ngọa cụ lông đen. Nếu Tỳ kheo lấy lông dê mới và toàn đen mà làm ngọa cụ mới, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 13 giới ngọa cụ lông trắng. Nếu Tỳ kheo làm ngọa cụ mới thì nên dùng lông dê mà 2 phần màu đen, 3 phần màu trắng, và 4 phần màu lẫn lộn; nếu Tỳ kheo ấy không dùng 2 phần màu đen, 3 phần màu trắng, và 4 phần màu lẫn lộn (46b) mà làm ngọa cụ mới, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 14 giới ngọa cụ còn mới (47). Nếu Tỳ kheo thì làm ngọa cụ mới, phải dùng đến 6 năm. Nếu dưới 6 năm, không xả bỏ cái cũ mà thay vào đó làm cái mới, thì, trừ tăng Yết ma cho phép, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 15 giới tọa cụ toàn mới (48). Nếu Tỳ kheo làm tọa cụ mới thì phải lấy 1 miếng tọa cụ cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên trên tọa cụ mới để làm cho hỏng màu sắc đi. Nếu làm tọa cụ mới mà không lấy 1 miếng tọa cụ cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên trên tọa cụ mới để làm cho hỏng màu sắc đi, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 16 giới cầm lông quá hạn (49). Nếu Tỳ kheo đi đường được lông dê, không có ai cầm giúp, thì mình được phép cầm lấy, nhưng cầm đi cho đến 3 do tuần mà thôi. Nếu không có ai cầm giúp, mình tự cầm lấy mà đi quá 3 do tuần, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 17 giới nhờ giặt lông dê (50). Nếu Tỳ kheo bảo Tỳ kheo ni không phải thân quyến giặt, nhuộm và vỗ giúp lông dê, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 18 giới cầm lấy tiền của (51). Nếu Tỳ kheo tự tay cầm lấy tiền, cầm lấy bạc vàng, hoặc bảo người cầm lấy, hoặc nhận lấy bằng cách bảo để xuống mặt đất, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 19 giới đổi chác tiền của (52). Nếu Tỳ kheo mà đổi chác (53) các thứ tiền và của báu, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 20 giới buôn bán các thứ. Nếu Tỳ kheo mà mua rẻ bán đắt mọi thứ, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 21 giới cất bát quá hạn. Nếu Tỳ kheo cất giữ trường bát (53b) mà không tịnh thí, thì chỉ được phép cất giữ 10 ngày. Quá thì hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 22 giới kiếm bát quá phận. Nếu Tỳ kheo dùng cái bát chưa đủ 5 chỗ hàn bịt, bát ấy cũng chưa rỉ nước, vậy mà thay vào đó đi tìm bát mới cho đẹp, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Tỳ kheo ấy nên đến giữa chư tăng mà xả bỏ bát mới ấy, và chư tăng tuần tự lấy cái bát của người thấp nhất (53c) đưa cho Tỳ kheo ấy dùng, và dùng cho đến bể. Đó là đúng trường hợp.
Thứ 23 giới kiếm chỉ dệt y (54). Nếu Tỳ kheo tự xin chỉ dệt, bảo thợ dệt không phải thân quyến của mình dệt y giúp, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 24 giới bảo thợ dệt thêm (55). Nếu Tỳ kheo có cư sĩ và vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt y cho Tỳ kheo ấy. Tỳ kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, lại đi đến chỗ thợ dệt, bảo rằng y này là dệt cho tôi, vậy anh dệt giúp cho thật đẹp, dệt cho rộng và bền, tốn thêm nhiều ít gì tôi cũng sẽ trả cho anh. Tỳ kheo ấy trả thêm tiền dầu chỉ đáng giá một bữa ăn mà được y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 25 giới đoạt lấy y lại. Nếu Tỳ kheo trước cho y Tỳ kheo khác, sau vì tức giâển nên tự đoạt lại, hay bảo người đoạt, và rằng hãy trả y lại cho tôi, tôi không cho ông nữa. Tỳ kheo kia trả y, mà Tỳ kheo ấy lấy y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 26 giới cất thuốc quá hạn (56). Nếu Tỳ kheo có bịnh, thì thuốc dư như sữa tô, dầu, sữa tô tươi, mật ong, đường phèn, được dùng trong thì hạn 7 ngày. Nếu quá 7 ngày mà còn dùng thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 27 giới khăn tắm trước hạn (57). Nếu Tỳ kheo thì mùa xuân còn 1 tháng nên kiếm khăn tắm mưa, còn nửa tháng nên dùng mà tắm. Nếu Tỳ kheo mà trước kiết hạ hơn 1 tháng đã kiếm khăn tắm mưa, trước kiết hạ hơn nửa tháng đã dùng mà tắm (58), thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 28 giới cất y cúng gấp (59). Nếu Tỳ kheo còn 10 ngày nữa thì hết kiết hạ 3 tháng (60), chư Tỳ kheo được phép nhận y cúng vội vàng. Tỳ kheo ấy biết là y cúng vội vàng thì nên nhận, nhận rồi được cất giữ trong thì hạn của y ấy (61). Nếu cất giữ quá thì hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 29 giới rời y quá hạn (62). Nếu Tỳ kheo kiết hạ 3 tháng đã xong, sau đó 1 tháng ca đề (63) cũng hết, đến ở chỗ a lan nhã (64), mà là chỗ có sự nghi ngại, khiếp sợ. Tỳ kheo ấy ở chỗ như vậy, thì trong 3 y, muốn thì gửi để 1 y trong nhà thôn xóm. Tỳ kheo ấy có lý do như vậy thì được phép rời y mà ngủ đến 6 đêm. Rời quá thì hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 30 giới xoay vật chư tăng (65). Nếu Tỳ kheo biết đó là vật người ta muốn hiến cúng cho chư tăng, mà mình tìm cách xoay lại hiến cúng cho mình, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 30 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 30 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

9/ Chín mươi Giới Đọa
Bạch chư đại đức, 90 giới Ba dật đề (66) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới cố ý nói dối. Nếu Tỳ kheo biết (67) mà nói dối, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 2 giới chưởi mắng thành phần (68). Nếu Tỳ kheo đem thành phần xã hội ra mà chưởi mắng, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 3 giới nói để ly gián (69). Nếu Tỳ kheo nói ly gián thì phạm Ba dật đề.
Thứ 4 giới ngủ cùng một nhà (70). Nếu Tỳ kheo cùng nữ nhân ngủ một nhà thì phạm Ba dật đề.
Thứ 5 giới ngủ quá thì hạn (71). Nếu Tỳ kheo cùng ngủ với người chưa thọ đại giới mà quá 2 đêm, đến đêm thứ 3 thì phạm Ba dật đề.
Thứ 6 giới đọc tụng ồn náo (72). Nếu Tỳ kheo cùng với người chưa thọ đại giới đọc tụng kinh pháp một cách ồn náo thì phạm Ba dật đề.
Thứ 7 giới nói tội lỗi nặng. Nếu Tỳ kheo biết người có tội lỗi nặng mà đem nói với người chưa thọ đại giới, thì, trừ tăng Yết ma sai bảo, phạm Ba dật đề.
Thứ 8 giới nói thật đắc đạo (73). Nếu Tỳ kheo nói với người chưa thọ đại giới, rằng tôi được cái pháp hơn người, tôi thấy như vậy, tôi biết như vậy; nói thật như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 9 giới một mình thuyết pháp (74). Nếu Tỳ kheo thuyết pháp cho nữ nhân mà quá năm sáu lời (75), thì, trừ sự có mặt của nam tử trí thức, phạm Ba dật đề.
Thứ 10 giới đào cuốc đất đai. Nếu Tỳ kheo tự tay đào đất hay bảo người đào đất thì phạm Ba dật đề.
Thứ 11 giới chặt phá cây sống. Nếu Tỳ kheo chặt phá cây cối, có nghĩa phá hủy chỗ ở của quỉ thần và sinh vật (76), thì phạm Ba dật đề.
Thứ 12 giới nói làm bực mình. Nếu Tỳ kheo bày đặt nói quanh để làm người khác bực mình, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 13 giới ghét mắng tri sự. Nếu Tỳ kheo ghét mắng chức sự của chư tăng thì phạm Ba dật đề.
Thứ 14 giới trải đồ đất trống (77). Nếu Tỳ kheo đem đồ của chư tăng như giường giây (78), giường cây, đồ nằm và nệm ngồi, tự sắp ra trên mặt đất trống, hay bảo người sắp ra, dùng rồi bỏ đó mà đi, không tự xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 15 giới trải đồ chỗ che (79). Nếu Tỳ kheo sắp đồ nằm của chư tăng ra trong tăng phòng, tự mình sắp ra hay bảo người sắp ra, rồi hoặc ngồi hoặc nằm, nhưng khi đi thì không tự xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 16 giới cưỡng chiếm chỗ nằm (80). Nếu Tỳ kheo biết chỗ của Tỳ kheo ở trước, mình đến sau mà cưỡng chiếm ở giữa, trải đồ nằm ra ngủ nghỉ, với ý nghĩ rằng nếu Tỳ kheo ở trước hiềm chật quá thì sẽ tự tránh mình mà đi. Ấy là muốn làm như thế chứ không có lý do gì khác. Phi uy nghi như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 17 giới lôi ra khỏi phòng. Nếu Tỳ kheo tức giận, không ưa Tỳ kheo khác, nên trong phòng hay trong nhà của chư tăng mà tự mình lôi ra hay bảo người lôi ra, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 18 giới ngồi giường sút chân. Nếu Tỳ kheo ở trong phòng hay trên gác, mà ngồi hay nằm trên giường giây hay giường cây sút chân, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 19 giới dùng nước có trùng. Nếu Tỳ kheo biết nước có trùng mà tự đem dội trên đất trên cỏ, hay bảo người dội, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 20 giới lợp nhà quá mức. Nếu Tỳ kheo làm phòng hay nhà lớn, có cửa cánh, cửa sổ, và những đồ trang trí khác, thì chỉ bảo lợp tranh chừng hai hay ba lớp. Lợp quá thì phạm Ba dật đề.
Thứ 21 giới tự đi dạy ni. Nếu Tỳ kheo chư tăng không sai phái mà tự đi giáo thọ cho Tỳ kheo ni, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 22 giới thuyết pháp đến tối (81). Nếu Tỳ kheo được chư tăng sai phái đi giáo thọ cho Tỳ kheo ni, mà đi đến trời tối thì phạm Ba dật đề.
Thứ 23 giới phỉ báng giáo thọ. Nếu Tỳ kheo nói với các Tỳ kheo khác bằng lời nói như vầy: các Tỳ kheo chỉ vì sự ăn uống mà đi giáo thọ cho Tỳ kheo ni, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 24 giới đem y cho ni (82). Nếu Tỳ kheo đem y cho Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình, thì, trừ sự trao đổi, phạm Ba dật đề.
Thứ 25 giới may y cho ni (83). Nếu Tỳ kheo may y cho Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình thì phạm Ba dật đề.
Thứ 26 giới cùng ngồi với ni. Nếu Tỳ kheo cùng với Tỳ kheo ni ngồi ở chỗ khuất, ngăn, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 27 giới hẹn ni cùng đi. Nếu Tỳ kheo hẹn với Tỳ kheo ni đi chung một đường, thì dầu chỉ từ một xóm đến một xóm, cũng vẫn, trừ trường hợp khác, phạm Ba dật đề. Trường hợp khác là đi với người đi buôn, hoặc đi mà có sự nghi ngại sợ hãi, đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 28 giới cùng ni đi thuyền. Nếu Tỳ kheo cùng Tỳ kheo ni hẹn nhau đi chung một thuyền ngược dòng hay xuôi dòng thì, trừ trường hợp đi đò ngang qua sông, phạm Ba dật đề.
Thứ 29 giới ăn của ni khuyên. Nếu Tỳ kheo biết đồ ăn do Tỳ kheo ni ca tụng khuyến hóa mà có, mà vẫn ăn, thì, trừ trường hợp thí chủ có ý thỉnh trước, phạm Ba dật đề.
Thứ 30 giới đi với nữ nhân. Nếu Tỳ kheo cùng nữ nhân hẹn nhau đi một đường, thì dầu chỉ đi đến một xóm cũng vẫn phạm Ba dật đề.
Thứ 31 giới ăn quá một bữa. Nếu Tỳ kheo có thí chủ chỉ cúng một bữa ăn, Tỳ kheo ấy không bịnh thì nên ăn một bữa thôi. Nếu ăn quá đi thì phạm Ba dật đề.
Thứ 32 giới ăn nhiều lần ăn. Nếu Tỳ kheo ăn nhiều lần thì, trừ trường hợp khác, phạm Ba dật đề. Trường hợp khác là khi mình bị bịnh, khi có người dâng y, đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 33 giới ăn riêng tăng chúng. Nếu Tỳ kheo ăn riêng tăng chúng thì, trừ các trường hợp khác, phạm Ba dật đề. Các trường hợp khác là khi bịnh, khi may y gấp, khi có người dâng y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng tập hợp, khi Sa môn của ngoại đạo mời ăn, đó gọi là các trường hợp khác.
Thứ 34 giới nhận quá giới hạn (84). Nếu Tỳ kheo đến nhà cư sĩ có ý thỉnh Tỳ kheo để cúng bánh, miến và cơm, Tỳ kheo ấy nếu cần thì nhận vài ba bát, đem về trong chùa nên chia cho các Tỳ kheo khác cùng ăn. Nếu Tỳ kheo ấy không bịnh mà nhận quá vài ba bát, đem về trong chùa cũng không chia cho các Tỳ kheo khác cùng ăn, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 35 giới muốn ăn cho đủ. Nếu Tỳ kheo ăn xong rồi, mà có khi nhận lời mời ăn nữa, nếu không làm phép ăn thừa (85) mà ăn, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 36 giới ép phạm ăn nữa. Nếu Tỳ kheo biết Tỳ kheo khác ăn đủ rồi, mình có nhận lời mời ăn nữa mà không làm phép ăn thừa, lại ân cần mời Tỳ kheo khác ấy cùng ăn với mình, và Tỳ kheo khác ấy cùng ăn. Tỳ kheo ấy chỉ vì lý do muốn làm cho Tỳ kheo khác ấy phạm giới, chứ không có lý do gì khác nữa, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 37 giới ăn lúc phi thời. Nếu Tỳ kheo ăn lúc không phải giờ ăn (86), ăn như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 38 giới ăn đồ cách đêm. Nếu Tỳ kheo đồ ăn để cách đêm mà ăn, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 39 giới ăn đồ không nhận (87). Nếu Tỳ kheo đối với thức ăn hay thuốc mình không nhận lời mời mà đã bỏ vào miệng (88) thì, trừ nước và tăm, phạm Ba dật đề.
Thứ 40 giới đòi đồ ăn ngon. Nếu Tỳ kheo được có những thức ăn ngon như sữa, sữa lạc (89); Tỳ kheo ấy có những thức ăn ngon ấy mà vốn không bịnh, chỉ tự đòi cho mình, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 41 giới cho ngoại đạo ăn. Nếu Tỳ kheo đối với ngoại đạo nam hay ngoại đạo nữ, mà mình tự tay cho họ thức ăn, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 42 giới đi mà không nói (90). Nếu Tỳ kheo trước đã nhận lời mời về bữa ăn trước hay bữa ăn sau, rồi đi đến nhà khác mà không dặn lại cho các Tỳ kheo, thì, trừ trường hợp khác, phạm Ba dật đề. Trường hợp khác là bịnh, may y, cho y, đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 43 giới nhà ăn ngồi dai (91). Nếu Tỳ kheo tại nhà ăn có vật báu (92) mà mình miễn cưỡng ngồi dai thì phạm Ba dật đề.
Thứ 44 giới nhà ăn ngồi khuất (93). Nếu Tỳ kheo tại nhà ăn có vật báu mà mình ngồi chỗ khuất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 45 giới ngồi với nữ nhân (94). Nếu Tỳ kheo ngồi một mình với nữ nhân ở chỗ đất trống, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 46 giới đuổi người đi đi. Nếu Tỳ kheo nói với Tỳ kheo khác như vầy, đại đức, đi với tôi đến xóm làng, sẽ có thức ăn cho đại đức. Nhưng đến rồi, Tỳ kheo ấy đã không khuyên cúng thức ăn cho Tỳ kheo khác này, mà lại bảo đại đức đi đi, tôi cùng đại đức ngồi hay nói với nhau một chỗ thì tôi không ưa, tôi ngồi một mình nói một mình thì thích hơn. Chỉ vì lý do như vậy, chứ không vì lý do gì khác hơn mà tìm cách xua đuổi người khác đi đi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 47 giới nhận thuốc quá hạn. Nếu Tỳ kheo được hứa cho thuốc 4 tháng, Tỳ kheo ấy không bịnh cũng nên nhận. Nhưng nếu nhận quá thì hạn ấy, thì, trừ người ta xin cho luôn, xin cho thêm, xin chia mà cho, xin cho suốt đời, phạm Ba dật đề.
Thứ 48 giới đi coi quân trận. Nếu Tỳ kheo đi coi quân trận thì, trừ trường hợp có lý do, phạm Ba dật đề.
Thứ 49 giới trong quân quá hạn (95). Nếu Tỳ kheo có lý do thì được phép đến trong quân đội tá túc 2 đêm 3 đêm, quá thì hạn ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 50 giới coi quân diễn tập. Nếu Tỳ kheo được phép tá túc trong quân đội vài ba đêm mà hoặc coi quân đội dàn trận, hoặc coi lực lượng tượng binh lính diễn tập, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 51 giới uống các thứ rượu. Nếu Tỳ kheo uống các thứ rượu thì phạm Ba dật đề.
Thứ 52 giới đùa giỡn dưới nước. Nếu Tỳ kheo đùa giỡn dưới nước thì phạm Ba dật đề.
Thứ 53 giới thọc léc người khác. Nếu Tỳ kheo lấy ngón tay ngón chân thọc léc lẫn nhau thì phạm Ba dật đề.
Thứ 54 giới không nhận khuyên can. Nếu Tỳ kheo không chấp nhận mọi sự khuyên can thì phạm Ba dật đề.
Thứ 55 giới dọa cho người sợ. Nếu Tỳ kheo dọa cho Tỳ kheo khác sợ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 56 giới tắm dưới nửa tháng. Nếu Tỳ kheo thì nửa tháng tắm rửa. Tỳ kheo không bịnh thì nên chấp nhận như vậy, không được nhiều hơn, vì trừ trường hợp khác thì phạm Ba dật đề. Trường hợp khác là khi nóng, khi bịnh, khi làm việc, khi bị gió mưa, khi đi đường, đó gọi là những trường hợp khác.
Thứ 57 giới đốt lửa đất trống. Nếu Tỳ kheo không bịnh, mà chỉ vì sưởi ấm nên tự đốt lửa giữa đất trống hay bảo người đốt, thì, trừ trường hợp có lý do, phạm Ba dật đề.
Thứ 58 giới cất giấu vật dụng. Nếu Tỳ kheo cất giấu vật dụng của Tỳ kheo khác như y, bát, đồ ngồi, ống kim, mình tự cất giấu hay bảo người cất giấu, ít nhất chỉ để giỡn chơi thôi, cũng phạm Ba dật đề.
Thứ 59 giới cho rồi lấy lại (96). Nếu Tỳ kheo đã đem y cho Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni rồi, sau đó không nói với người chủ của y được cho, mà lấy lại dùng, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 60 giới dùng y mới nguyên. Nếu Tỳ kheo được có y mới nguyên, thì trong 3 màu làm hỏng nguyên màu, tùy ý lấy 1 màu mà làm hỏng nguyên màu đi, đó là màu xanh, màu đen, màu nấu vỏ cây mộc lan. Nếu Tỳ kheo ấy không lấy màu xanh, màu đen, màu nấu vỏ cây mộc lan, 3 màu làm hỏng nguyên màu đi, mà dùng y mới nguyên, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 61 giới cố hại súc sinh. Nếu Tỳ kheo cố hại tính mạng súc sinh, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 62 giới uống nước có trùng. Nếu Tỳ kheo biết nước có trùng mà vẫn uống vẫn dùng, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 63 giới quấy rối người khác (97). Nếu Tỳ kheo cố ý làm bực mình Tỳ kheo khác, thì dầu làm cho chốc lát không vui thôi cũng phạm Ba dật đề.
Thứ 64 giới che giấu tội người. Nếu Tỳ kheo biết Tỳ kheo khác phạm tội nặng mà che giấu, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 65 giới độ người thiếu tuổi (98). Tuổi đầy 20 mới nên lãnh thọ đại giới. Nếu Tỳ kheo biết người tuổi chưa đầy 20 mà cho lãnh thọ đại giới, thì người ấy không được giới pháp, mà Tỳ kheo ấy cũng đáng trách vì ngu muội, nên phạm Ba dật đề.
Thứ 66 giới khơi sự tranh cãi (99). Nếu Tỳ kheo biết sự tranh cãi đã sám hối đúng phép rồi, mà sau đó mình còn khơi dậy trở lại, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 67 giới hẹn đi với giặc. Nếu Tỳ kheo biết là giặc mà hẹn cùng đi một đường, thì dẫu đi chỉ bằng đến một thôn cũng phạm Ba dật đề.
Thứ 68 giới chống can nói càn (100). Nếu Tỳ kheo nói như vầy: theo tôi biết giáo pháp Phật nói thì hành dâm không phải là sự chướng đạo. Tỳ kheo khác can Tỳ kheo ấy, rằng đại đức, đừng nói như vậy, đừng phỉ báng đức Thế Tôn. Phỉ báng đức Thế Tôn thì không tốt. Đức Thế Tôn không nói như vậy. Đức Thế Tôn đã dùng nhiều cách nói rằng phạm vào sự dâm dục là điều chướng đạo. Tỳ kheo khác can gián Tỳ kheo ấy mà Tỳ kheo ấy kiên trì không bỏ, thì Tỳ kheo khác phải can gián đến lần thứ 3 để Tỳ kheo ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Nếu can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 69 giới theo người có lỗi (101). Nếu Tỳ kheo biết Tỳ kheo nói "theo tôi biết giáo pháp Phật nói thì hành dâm không phải là sự chướng đạo" đang bị cử tội mà chưa được tác pháp giải tội, sự thấy biết sai lầm đến như vậy cũng không chịu từ bỏ; biết như vậy mà vẫn cung cấp đồ dùng, vẫn chung cùng Yết ma, vẫn cùng ngủ nghỉ cùng nói chuyện, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 70 giới dung kẻ bị đuổi (102). Nếu Tỳ kheo biết Sa di nói như vầy: tôi nghe Phật nói hành dâm không phải là sự chướng đạo. Các vị Tỳ kheo can gián Sa di ấy, bằng cách nói rằng ông đừng phỉ báng đức Thế Tôn, phỉ báng đức Thế Tôn thì không tốt; đức Thế Tôn không dạy như ông nói. Này, Sa di, đức Thế Tôn đã dùng nhiều cách nói dâm dục là sự chướng đạo. Các vị Tỳ kheo can gián như vậy mà Sa di ấy kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo nên can gián đến lần thứ 3 để Sa di ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Nếu can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt. Nếu không bỏ thì các vị Tỳ kheo nên bảo Sa di ấy, rằng từ nay sắp đi ông không còn được nói đức Phật là đấng Thế Tôn của con, không được theo các vị Tỳ kheo, các Sa di khác được ngủ một phòng với Tỳ kheo vài ba đêm thì ông không còn được sự ấy nữa: ông hãy đi ra đi, hãy đi mất đi, không nên ở đây nữa. Nếu Tỳ kheo biết Sa di ấy bị chư tăng đuổi như vậy mà dụ dỗ đem về nuôi dưỡng, cho ở chung ngủ chung, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 71 giới chống cự khuyên học. Nếu Tỳ kheo khi được các Tỳ kheo đúng phép can gián, mà nói như vầy: tôi nay không học giới này, tôi sẽ gạn hỏi vị Tỳ kheo trì luật nào có trí tuệ, thì phạm Ba dật đề. Nếu muốn học thật thì lại cần phải gạn hỏi.
Thứ 72 giới phỉ báng giới pháp. Nếu Tỳ kheo khi nghe thuyết giới mà nói như vầy: đại đức cần gì phải nói những giới điều vụn vặt như vậy. Nói những giới điều như vậy chỉ làm người bực mình, xấu hổ, thắc mắc. Vì khinh chê giới pháp nên phạm Ba dật đề.
Thứ 73 giới sợ nên nói trước (103). Nếu Tỳ kheo khi nghe thuyết giới mà nói như vầy: nay tôi mới biết giới điều này được chép trong Giới kinh, mỗi nửa tháng tụng một lần, rút ra từ trong Giới kinh. Nhưng các Tỳ kheo khác biết Tỳ kheo ấy đã 2 lần 3 lần ngồi nơi chỗ thuyết giới, huống chi đã nhiều lần. Tỳ kheo ấy nói không hiểu biết, vậy nếu phạm tội thì phải đúng phép mà trị tội đã phạm, lại trị thêm tội không hiểu biết; hãy bảo rằng, đại đức, ông không được lợi ích, không khéo léo kiếm được lợi ích, ấy là khi nghe thuyết giới mà ông không dụng tâm ghi nhớ, không nghe với một lòng và hai tai, ấy vậy, không hiểu biết giới điều thì phạm Ba dật đề.
Thứ 74 giới Yết ma rồi hối (104). Nếu Tỳ kheo chung cùng Yết ma rồi, sau đó nói rằng các Tỳ kheo theo bạn thân nên lấy vật của chư tăng mà cho họ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 75 giới không nói dữ dục. Nếu Tỳ kheo, chư tăng xử việc chưa xong, mình không nói dữ dục mà đứng dậy đi ra, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 76 giới dữ dục rồi hối. Nếu Tỳ kheo dữ dục rồi sau đó hối tiếc, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 77 giới lén nghe tranh cãi (105). Nếu Tỳ kheo, các Tỳ kheo tranh cãi với nhau, mình lén nghe rồi đem lời ấy nói với người khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 78 giới đánh Tỳ kheo khác (106). Nếu Tỳ kheo vì tức giận không vui mà đánh Tỳ kheo khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 79 giới tát Tỳ kheo khác. Nếu Tỳ kheo vì tức giận không vui mà lấy tay tát Tỳ kheo khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 80 giới vu khống phạm tội (107). Nếu Tỳ kheo vì tức giận nên đem sự vô căn cứ mà phỉ báng Tỳ kheo khác phạm Tăng già bà thi sa, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 81 giới vào cửa cung vua. Nếu Tỳ kheo, có vua thuộc dòng Sát lợi, rưới nước đỉnh đầu lúc đăng quang, vua này chưa ra khách, chưa cất bảo vật, mà mình đi vào, nếu bước qua ngưỡng cửa cung vua, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 82 giới cầm giữ vàng ngọc. Nếu Tỳ kheo đối với vàng ngọc hay đồ trang sức bằng vàng ngọc, mà mình tự cầm giữ hay bảo người cầm giữ, thì, trừ trong chùa và chỗ ngủ nhờ, phạm Ba dật đề. Trong chùa và chỗ ngủ nhờ mà cầm giữ vàng ngọc hay đồ trang sức bằng vàng ngọc, tự mình cầm giữ hay bảo người cầm giữ, thì nên nghĩ rằng để người chủ nhớ mà đến lấy: vì ý nghĩ ấy chứ không vì gì khác.
Thứ 83 giới đi không phải lúc (108). Nếu Tỳ kheo đi vào xóm làng không phải lúc, mà không dặn lại Tỳ kheo khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 84 giới làm giường quá cỡ. Nếu Tỳ kheo làm giường giây giường cây, thì chân chỉ cao bằng 8 ngón tay của Phật, trừ chỗ vô mộng hớt rồi. Nếu quá cỡ ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 85 giới dồn bông độn nệm (109). Nếu Tỳ kheo dồn đâu la làm nệm lớn nệm nhỏ cho giường giây giường cây, làm thành là phạm Ba dật đề.
Thứ 86 giới làm ống đựng kim (110). Nếu Tỳ kheo làm ống đựng kim bằng xương, nanh, sừng, khoét chuốt làm thành, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 87 giới ngọa cụ quá cỡ (111). Nếu Tỳ kheo làm ni sư đàn thì phải làm đúng cỡ. Cỡ ở đây là dài bằng 2 gang tay của Phật, rộng bằng 1 gang rưỡi; cần rộng dài thêm thì mỗi bề thêm nửa gang tay nữa. Quá cỡ ấy thì cắt thành là phạm Ba dật đề.
Thứ 88 giới làm khăn che ghẻ (112). Nếu Tỳ kheo làm khăn che ghẻ thì phải đúng cỡ. Cỡ ở đây là dài bằng 4 gang tay của Phật, rộng bằng 2 gang tay. Cắt rồi mà quá cỡ ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 89 giới khăn tắm quá cỡ. Nếu Tỳ kheo làm khăn tắm mưa thì phải làm đúng cỡ. Cỡ ở đây là dài bằng 6 gang tay của Phật, rộng bằng 2 gang rưỡi. Quá cỡ ấy thì cắt rồi là phạm Ba dật đề.
Thứ 90 giới 3 y quá cỡ. Nếu Tỳ kheo thì may y phải bằng cỡ y của Phật, may quá cỡ ấy thì phạm Ba dật đề. Ở đây cỡ y của Phật là dài bằng 9 gang tay của Ngài, rộng bằng 6 gang tay, đó là cỡ của y Phật.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 90 giới Ba dật đề. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 90 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 90 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

10/ Bốn Giới Hối Quá
Bạch chư đại đức, 4 giới ba la đề đề xá ni (113) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới ăn đồ ăn ni (114). Nếu Tỳ kheo vào trong làng xóm, không bịnh, mà tự tay nhận lấy đồ ăn mà ăn của Tỳ kheo ni không phải thân quyến, thì Tỳ kheo ấy phải đến Tỳ kheo khác mà hối lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 2 giới ăn đồ chỉ bảo (115). Nếu Tỳ kheo đến ăn ở nhà cư sĩ, ở đây có Tỳ kheo ni chỉ bảo đưa đồ ăn (116) vị này, đưa cơm vị kia, thì Tỳ kheo ấy nên nói với Tỳ kheo ni, rằng xin bà chị thôi đi, để các Tỳ kheo ăn xong đồ ăn này đã. Nếu không có một Tỳ kheo nào nói với Tỳ kheo ni ấy như vậy, rằng xin bà chị thôi đi, để các Tỳ kheo ăn xong đồ ăn này đã, thì Tỳ kheo thủ chúng phải đến Tỳ kheo khác mà hối lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 3 giới ăn của học gia (117). Nếu trước đã làm phép Yết ma học gia, mà nơi học gia ấy, Tỳ kheo không được mời trước, không bịnh, mà tự tay nhận lấy đồ ăn của họ mà ăn, thì Tỳ kheo ấy phải đến Tỳ kheo khác mà hối lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 4 giới ăn chỗ nghi sợ (118). Nếu Tỳ kheo có chỗ vắng vẻ, xa, và có sự nghi sợ; Tỳ kheo ấy ở chỗ vắng vẻ như vậy mà không nói trước cho thí chủ biết đường đến chỗ ấy đáng sợ, Tỳ kheo ấy cũng không đi nhận đồ ăn ở ngoài chỗ ấy, Tỳ kheo ấy chỉ ở trong chỗ ấy, và không bịnh, vậy mà tự tay nhận lấy đồ ăn mà ăn, thì Tỳ kheo ấy phải đến Tỳ kheo khác mà hối lỗi như vầy: bạch đại đức, tôi phạm vào sự đáng trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại đức mà hối lỗi. Đó gọi là sự hối lỗi.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 4 giới ba la đề đề xá ni. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 4 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 4 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

11/ Trăm Giới Học
Bạch chư đại đức, 100 giới phải học (119) sau đây, cứ mỗi nửa tháng phải tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1. Nên mặc quần (119b) cho tề chỉnh, phải học.
Thứ 2. Nên mặc 3 y cho tề chỉnh, phải học.
Thứ 3. Không được vắt trái y đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 4. Không được vắt trái y ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 5. Không được quấn y nơi cổ vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 6. Không được quấn y nơi cổ ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 7. Không được trùm đầu vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 8. Không được trùm đầu ngồi nhà cư sĩ, phải học. (120)
Thứ 9. Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 10. Không được vừa đi vừa nhảy ngồi nhà cư sĩ, phải học.

Thứ 11. Không được ngồi xoạc đùi trong nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 12. Không được chống nạnh đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 13. Không được chống nạnh ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 14. Không được lắc mình đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 15. Không được lắc mình ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 16. Không được vung tay đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 17. Không được vung tay ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 18. Khéo che mình kín đáo vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 19. Khéo che mình kín đáo ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 20. Không được nhìn bên này liếc bên kia đi vào nhà cư sĩ, phải học.

Thứ 21. Không được nhìn bên này liếc bên kia ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 22. Yên lặng vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 23. Yên lặng ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 24. Không được giỡn cười đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 25. Không được giỡn cười ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 26. Chú ý khi ăn (121), phải học.
Thứ 27. Lấy cơm chỉ ngang miệng bát mà ăn, phải học.
Thứ 28. Cả đồ ăn (122) nữa cũng chỉ lấy ngang miệng bát mà ăn, phải học.
Thứ 29. Đồ ăn và cơm phải lấy tương đương với nhau, phải học.
Thứ 30. Tuần tự mà ăn (123), phải học.

Thứ 31. Không được moi xốc giữa bát mà ăn, phải học.
Thứ 32. Không bịnh thì không được tự hỏi cơm và đồ ăn cho mình, phải học.
Thứ 33. Không được lấy cơm đậy đồ ăn lại để mong có đồ ăn nữa, phải học.
Thứ 34. Không được liếc xem trong bát Tỳ kheo ngồi bên cạnh, phải học.
Thứ 35. Phải để ý nơi bát mà ăn, phải học.
Thứ 36. Không được dồn cơm lớn miếng mà ăn, phải học.
Thứ 37. Không được hả lớn miệng để chờ cơm mà ăn, phải học.
Thứ 38. Không được ngậm cơm mà nói chuyện, phải học.
Thứ 39. Không được nắm cơm ngoài xa ném vào miệng, phải học.
Thứ 40. Không được ăn mà còn sót lại (124), phải học.

Thứ 41. Không được bung má mà ăn, phải học.
Thứ 42. Không được nhai (124b) ra tiếng mà ăn, phải học.
Thứ 43. Không được hớp cơm mà ăn, phải học.
Thứ 44. Không được le lưỡi liếm mà ăn, phải học.
Thứ 45. Không được rảy tay mà ăn, phải học.
Thứ 46. Không được lượm cơm rơi mà ăn, phải học.
Thứ 47. Không được tay dơ cầm đồ đựng nước uống (125), phải học.
Thứ 48. Không được đổ nước rửa bát trong nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 49. Không được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ trên cỏ tươi, trừ lúc có bịnh, phải học.
Thứ 50. Không được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ vào nước sạch, trừ lúc có bịnh, phải học.

Thứ 51. Không được đứng mà đại tiện tiểu tiện, trừ lúc có bịnh, phải học.
Thứ 52. Không được thuyết pháp cho người vắt áo lên vai, không cung kính, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 53. Không được thuyết pháp cho người quấn áo nơi cổ, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 54. Không được thuyết pháp cho người che đầu, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 55. Không được thuyết pháp cho người trùm đầu, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 56. Không được thuyết pháp cho người chống nạnh, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 57. Không được thuyết pháp cho người mang dép da, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 58. Không được thuyết pháp cho người mang guốc gỗ, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 59. Không được thuyết pháp cho người cưỡi ngựa, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 60. Không được ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ ra để coi giữ, phải học.

Thứ 61. Không được cất giấu của cải trong tháp Phật, trừ ra để cho chắc chắn, phải học.
Thứ 62. Không được mang dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 63. Không được cầm dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 64. Không được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật, phải học.
Thứ 65. Không được mang giày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 66. Không được cầm giày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 67. Không được ngồi ăn nơi tháp Phật mà xả rác và thức ăn làm dơ đất, phải học.
Thứ 68. Không được khiêng thây chết đi qua tháp Phật, phải học.
Thứ 69. Không được chôn thây chết nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 70. Không được đốt thây chết nơi tháp Phật, phải học.
   
Thứ 71. Không được hướng về tháp Phật mà đốt thây chết, phải học.
Thứ 72. Không được đốt thây chết bốn phía tháp Phật để hơi hôi bay vào, phải học.
Thứ 73. Không được mang áo và giường người chết đi qua tháp Phật, trừ ra đã giặt, nhuộm và xông hương, phải học.
Thứ 74. Không được đại tiện tiểu tiện nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 75. Không được hướng về tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện, phải học.
Thứ 76. Không được đại tiện tiểu tiện bốn phía tháp Phật để hơi thối bay vào, phải học.
Thứ 77. Không được mang ảnh tượng của Phật đến chỗ đại tiện tiểu tiện, phải học.
Thứ 78. Không được ở nơi tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 79. Không được hướng về tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 80. Không được bốn phía tháp Phật mà xỉa răng, phải học.

Thứ 81. Không được nơi tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 82. Không được hướng về tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 83. Không được bốn phía tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 84. Không được ngồi duỗi chân trước tháp Phật, phải học.
Thứ 85. Không được để tượng Phật ở phòng dưới còn mình ở phòng trên, phải học.
Thứ 86. Người ngồi mà mình đứng thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 87. Người nằm mà mình ngồi thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 88. Người ngồi ghế mà mình ngồi chỗ không phải ghế thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 89. Người ngồi chỗ cao mà mình ngồi chỗ thấp thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 90. Người đi trước mà mình đi sau thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.

Thứ 91. Người ở chỗ kinh hành cao mà mình ở chỗ kinh hành thấp thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 92. Người đi giữa đường mà mình đi lề đường thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 93. Không được dắt tay nhau mà đi đường, phải học.
Thứ 94. Không được trèo cây cao quá đầu người, trừ trường hợp có lý do, phải học,
Thứ 95. Không được đựng bát vào đãy, xâu vào đầu tích trượng rồi vác trên vai mà đi, phải học.
Thứ 96. Người cầm gậy, không cung kính, thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 97. Người cầm kiếm thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 98. Người cầm mâu thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 99. Người cầm dao thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 100. Người che dù thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.

Bạch chư đại đức, tôi đã nói các giới phải học. Nay xin hỏi chư đại đức, trong các giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong các giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

12/ Bảy Pháp Diệt Tránh
Bạch chư đại đức, 7 pháp diệt tránh (126) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh. Nếu các Tỳ kheo có sự tranh cãi nổi lên thì phải diệt trừ liền.
Thứ 1. Đáng cho hiện tiền tì ni thì nên cho hiện tiền tì ni.
Thứ 2. Đáng cho ức niệm tì ni thì nên cho ức niệm tì ni.
Thứ 3. Đáng cho bất si tì ni thì nên cho bất si tì ni.
Thứ 4. Đáng cho tự nói xử trị thì nên cho tự nói xử trị.
Thứ 5. Đáng cho xét tìm tội tướng thì nên cho xét tìm tội tướng.
Thứ 6. Đáng cho nhiều người xét tìm thì nên cho nhiều người xét tìm.
Thứ 7. Đáng cho như cỏ che đất thì nên cho như cỏ che đất.
Bạch chư đại đức, tôi đã nói 7 pháp diệt tránh. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 7 pháp ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 7 pháp ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.
 
Lời Kết Thúc
Bạch chư đại đức, tôi đã nói lời nói đầu của Giới kinh, đã nói 4 giới Ba la di, đã nói 13 giới Tăng già bà thi sa, đã nói 2 giới bất định, đã nói 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề, đã nói 90 giới Ba dật đề, đã nói 4 giới ba la đề đề xá ni, đã nói 100 giới chúng học, đã nói 7 pháp diệt tránh. Tất cả giới điều như vậy là Giới kinh Phật dạy, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh. Còn những Phật pháp khác nữa thì, với những Phật pháp ấy, hãy chung cùng hòa hợp mà học.

13/ Phần Cuối Tỳ kheo Giới
Đức tính nhẫn nhục
là đạo bậc nhất,
Phật nói vô vi
là pháp tối thượng;
là người xuất gia
mà bức não người,
thì không được gọi
là bậc Sa môn.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Tỳ bà thi, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.
Ví dụ như người
có đôi mắt sáng,
mới có khả năng
tránh đường hiểm nghèo;
thế giới mà có
những người thông minh,
thì có khả năng
xa rời điều ác.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Thi khí, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.
Không hề phỉ báng
cũng không ganh ghét,
và hãy kính cẩn
tuân hành giới pháp,
bằng cách ăn uống
cũng biết vừa đủ,
thường thường thích thú
ở chỗ thanh vắng,
tâm trí định tĩnh
ưa thích tinh tiến,
đó là những điều
chư Phật huấn dụ.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Tỳ Diệp La, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.
Ví như loài ong
hút lấy mật hoa,
thì không thương tổn
sắc hương của hoa,
mà chỉ hút lấy
cái vị mật ngọt,
Tỳ kheo cũng vậy,
đi vào làng xóm,
thì không can dự
công việc người khác,
không nhìn đáng làm
hay không đáng làm,
mà chỉ tự nhìn
bản thân mà đi
coi có ngay thẳng
hay không ngay thẳng.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Câu Lưu Tôn, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.
Tâm trí không nên
có sự phóng dật,
pháp của bậc thánh
phải siêng học tập,
được như thế ấy
không còn lo buồn,
tâm trí ổn định
nhập vào niết bàn.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Câu Na Hàm Mâu Ni, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.
Tất cả điều ác
đừng có làm đến,
tất cả điều thiện
kính cẩn mà làm,
tự mình làm sạch
tâm trí của mình,
những điều như vậy
là chư Phật dạy.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Ca diếp, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.
Khéo léo mà giữ
miệng lưỡi lời tiếng,
tự mình làm sạch
tâm trí của mình,
và thân thể nữa
cũng đừng làm ác,
đó là đường sạch
của cả ba nghiệp;
khả năng đạt được
đường sạch như vậy,
chính là đường đi
của bậc đại tiên.

Bài tụng này là Giới kinh của đức Thích Ca Mâu Ni, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri, thuyết ra cho chư tăng không có mọi sự tội lỗi trong 12 năm. Từ đó về sau chỉ là phân tích phong phú Giới kinh này.
Chư vị Tỳ kheo, những ai ưa thích giáo pháp và ưa thích Sa môn, những ai có sự hổ thẹn lấy mình và có sự hổ thẹn với người, ưa thích học giới pháp, thì phải học các Giới kinh này.
Những người minh triết
giữ được giới pháp
thì thực hiện được
ba thứ vui thích,
một là danh thơm
hai là lợi quí
ba là chết rồi
sinh lên chư thiên.
Cần phải cứu xét
cái điều này đây,
mà người có trí
nên giữ giới pháp.
Giới mà trong sạch
lại có tuệ giác,
thì thực hiện được
cái đạo bậc nhất.
Tất cả Phật Đà
trong thì quá khứ,
cùng chư Thế Tôn
hiện tại vị lai,
chiến thắng lo buồn
là do cùng nhau
tôn kính giới pháp,
và chính điều này
là cái nguyên tắc
của chư Phật Đà.
Nếu có người nào
biết tự vì mình
mà tìm đường đi
của chư Phật Đà,
thì hãy tôn trọng
đối với chánh pháp,
đó là huấn thị
của chư Như Lai.
Bảy đức Phật Đà
là đấng Thế Tôn,
đã trừ diệt hết
mọi thứ kiết sử,
và đã thuyết ra
bảy bản Giới kinh,
làm cho giải thoát
mọi thứ ràng buộc,
làm cho nhập vào
niết bàn tối thượng,
ở đó vĩnh viễn
diệt sạch hý luận.
Tôn trọng tuân hành
Giới kinh Phật nói,
cùng với giới pháp
hiền thánh ca tụng,
con em của Phật
mà làm như vậy
thì sẽ nhập vào
niết bàn tịch diệt.
Khi đức Thế Tôn
sắp nhập niết bàn,
Ngài đã nổi dậy
lòng thương to lớn,
chiêu tập đầy đủ
chư vị Tỳ kheo,
và dạy như vầy
đối với giới pháp:
Chư vị đừng nói
Như Lai nhập diệt
thì không ai giữ
cho người thanh tịnh;
Như Lai đã khéo
nói ra Giới kinh,
Như Lai lại khéo
nói ra giới pháp,
dẫu rằng Như Lai
nhập vào niết bàn,
chư vị hãy coi
Giới ấy như Phật.
Giới kinh tồn tại
lâu dài trong đời,
thì Pháp của Phật
sẽ được hưng thịnh,
và Pháp của Phật
mà hưng thịnh lên,
thì làm cho người
được nhập niết bàn.
Nếu không tuân giữ
giới pháp như vầy,
và không đúng phép
cử hành bố tát,
thì như mặt trời
đến lúc lặn mất,
cả thế giới này
tối tăm mịt mù.
Hãy cố mà giữ
giới pháp như vầy,
như bò đuôi dài
tiếc giữ đuôi nó,
bằng cách hòa hợp
tập hợp thuyết giới,
đúng như Phật Đà
đã từng huấn dụ.
Tôi đã thành kính
tụng lại Giới kinh,
chư tăng cũng đã
bố tát hoàn tất.
Tôi tụng Giới kinh
được bao công đức,
nguyện hiến chúng sinh
cùng thành Phật đạo.

Ghi Chú
Ghi Chú (1)
Giới kinh ở đây là Tỳ kheo giới bản. Giới kinh ở đây còn có 2 trường hợp nữa. Có trường hợp chỉ cho Tứ phần luật. Có trường hợp chỉ cho mỗi bài tụng của 7 đức Phật nói Giới kinh.
Ghi Chú (2)
Chính văn là thánh pháp tài (tài sản chánh pháp của các vị thánh), thường nói tắt là thánh tài. Thánh tài có 7 thứ, là tín, giới, tàm, quí, văn, xả, tuệ. Có 7 thứ này thì gọi là thánh nhân (kinh Niết bàn).
Ghi Chú (3)
Tỳ kheo giới có 8 loại:
1. Ba la di (khí), có 4;
2. Tăng già bà thi sa (tăng tàn), có 13;
3. bất định, có 2;
4. Ni tát kỳ Ba dật đề (xả đọa), có 30;
5. Ba dật đề (đọa), có 90;
6. ba la đề đề xá ni (hối quá), có 4;
7. Thức xoa ca la (học pháp), có 100;
8. diệt tránh, có 7. Chính văn này chỉ đưa ra 3 loại là nói tắt.
Ghi Chú (4)
Dịch đúng chính văn là nói việc ấy cho tôi. Chính văn này không chỉnh. Ở đây là các đức Phật đều nói Giới kinh.
Ghi Chú (5)
Giới luật của các dị giáo, ngoại đạo.
Ghi Chú (6)
Hỏi hòa hợp trước (theo Hàm chú) thì đúng sách và đúng việc hơn.
Ghi Chú (7)
Đại khái gửi lời thưa rằng mình cũng muốn bố tát và trong nửa tháng vừa qua mình không vi phạm giới nào.
Ghi Chú (8)
Chính văn là thời đáo, có nghĩa đến lúc, đúng lúc, thì gian thích hợp.
Ghi Chú (9)
Tác bạch thành không? (Đáp: thành), là dịch theo Tứ phần Tỳ kheo giới bản (của ngài Hoài Tố) và theo thông thường. Đúng chính văn của Tứ phần luật hàm chú giới bản (của ngài Đạo Tuyên, tổ sư sáng lập Luật tông) thì không có câu hỏi đáp này, tức Yết ma ở đây là đan bạch.
Ghi Chú (10)
Chỉ cho 37 giác phần, đặc biệt chỉ cho 8 chánh đạo.
Ghi Chú (11)
Chính văn là trì, có nghĩa nắm giữ trong trí, tức là nhớ, ghi nhận.
Ghi Chú (12)
Dịch nghĩa là khí (bị bỏ ra ngoài tăng chúng), nhưng chính nghĩa là tha thắng (bị chiến thắng).
Ghi Chú (12b)
Tăng kỳ luật nói Tỳ kheo thọ cụ túc giới trong tăng hòa hợp. Thập tụng luật nói Tỳ kheo nhập vào trong giới pháp. Ngũ phần luật nói Tỳ kheo đồng được giới pháp. Hữu bộ luật nói đồng được học xứ.
Ghi Chú (13)
Sự dâm dục, Luật gọi là phi phạm hạnh, là bất tịnh hạnh.
Ghi Chú (14)
Không được cùng tăng chúng Yết ma và thuyết giới.
Ghi Chú (15)
Tăng thượng mạn là chưa được mà tự cho đã được. Nhưng rồi có người sau đó được thật. Ở đây trừ là trừ người này.
Ghi Chú (16)
Dịch nghĩa là tăng tàn, là phạm những tội này còn có thể cứu vãn được nếu biết sám hối trước 20 vị Tỳ kheo, không thì cũng như phạm tội Ba la di.
Ghi Chú (17)
Là thủ dâm.
Ghi Chú (18)
Dịch đủ là nói năng thô tục dâm đãng, tức nói về sự dâm dục, nói về những bộ phận sinh dục.
Ghi Chú (19)
Dịch đủ là khen mình để đòi nữ nhân hiến dâng sự dâm dục.
Ghi Chú (20)
Tức làm cốc, tịnh thất.
Ghi Chú (21)
Dịch đủ là làm nhà có thí chủ, làm cho mình, nhưng không thỉnh chư Tỳ kheo chỉ định nơi chỗ.
Ghi Chú (22)
Dịch đủ và sát là một cách không có căn cứ mà phỉ báng người khác phạm tội Ba la di.
Ghi Chú (23)
Dịch sát và đủ là mượn căn cứ khác mà phỉ báng phạm tội Ba la di.
Ghi Chú (24)
Dịch sát và đủ là phá hoại tăng hòa hợp mà chống lại sự can gián.
Ghi Chú (25)
Tăng hòa hợp là 4 vị Tỳ kheo sắp lên, cùng Yết ma và cùng tụng giới.
Ghi Chú (26)
Dịch đủ là hỗ trợ sự phá hoại tăng hòa hợp mà còn chống đối can gián.
Ghi Chú (27)
Dịch sát và đủ là làm hoen ố tín đồ, bị đuổi thì phỉ báng, chống đối can gián.
Ghi Chú (28)
Làm hoen ố tín đồ, chính văn là ô tha gia (làm bẩn người khác). Ô tha gia có 4 hình thức mà đứng đầu là đem vật của người này cho mà cho lại người khác, làm cho tâm lý người nào cũng không còn bình thường. Làm những việc xấu là những việc xấu dẫn ra từ sự ô tha gia.
Ghi Chú (29)
Dịch đủ là ngoan cố, chống cự chư tăng, chống đối can gián. Ngoan cố, chính văn là ác tính (tính tình ngang bướng).
Ghi Chú (30)
Sống riêng, chính văn là ba lị bà sa, dịch nghĩa là biệt trú. Biệt trú là ở riêng một mình trong 1 phòng xấu, với giường nằm xấu, trong thì gian bằng thì gian che giấu (kể từ khi phạm cho đến khi phát giác).
Ghi Chú (31)
Hoan hỷ, chính văn là ma na đỏa, dịch nghĩa là ý hỷ. Ý hỷ là ở sát cạnh chư tăng, chân thành ân hận, làm cho chư tăng hoan hỷ mà mình cũng hoan hỷ.
Ghi Chú (32)
Trường hợp, chính văn là thời. Chính văn trọn câu này là thử thị thời (đó là thời). Tra các bộ luật khác thì Ngũ phần và Thập tụng là thị pháp ưng nhĩ (giới này phải thế), Tăng kỳ là thị sự pháp nhĩ (việc này là thế), Hữu bộ là thử thị xuất tội pháp (ấy là cách giải tội). Như vậy chữ thời ở đây có thể hiểu và dịch là trường hợp. Sau đây có tất cả 9 chữ thời như vậy nữa.
Ghi Chú (33)
Bất định là tùy sự tố giác mà định tội danh và xử trị theo 1 trong 3 tội (Ba la di, Tăng già bà thi sa, Ba dật đề) hay theo 1 trong 2 tội (trừ Ba la di).
Ghi Chú (34)
Nữ tín đồ chánh tín Tam bảo, chấp trì ngũ giới, trí nhớ tốt và nói chắc thật.
Ghi Chú (35)
Dịch nghĩa là xả đọa, là xả thí những vật dụng dư thừa rồi sám hối, nếu không thì sẽ bị đọa lạc ác đạo.
Ghi Chú (36)
Là Tăng già lê, uất đa la tăng, an đà hội.
Ghi Chú (37)
Y công đức (ca hy na y) là y được xét thưởng sau 3 tháng an cư thanh tịnh. Ai được xét thưởng thì có 5 tháng (16/7 đến 15/12) được hưởng 5 điều Luật định.
Ghi Chú (38)
Trường y (y dài) là dài bằng 8 ngón tay và rộng bằng 4 ngón tay của Phật. Danh nghĩa (Vạn 70/346) nói trường y là y dư thừa; hễ vải dài 1 thước 6, rộng 8 tấc, thì đã gọi là trường y.
Ghi Chú (39)
Tịnh thí nghĩa là cho một cách trong sạch. Tịnh thí ở đây là Tỳ kheo có thừa những vật dụng (như y bát v/v) thì phải thí xả. Có 2 cách tịnh thí. Một là chân thật tịnh thí, là đem vật dụng thừa ra giữa chư tăng mà thí xả cho người khác. Hai là triển chuyển tịnh thí, là thí xả giữa chư tăng mà nói tên người mình muốn cho. Nếu người ấy vắng mặt thì chư tăng nói: Đại đức đã cho người ấy rồi thì đó là vật của người ấy; đại đức nên cất giữ giúp người ấy, và nếu cần thì mượn mà dùng.
Ghi Chú (39b)
Có bản chép: ngủ khác chỗ trong 1 đêm. Nhưng tra Tứ phần luật (Chính 22/603d) thì đúng như bản Đạo Tuyên chép: không có những chữ trong 1 đêm.
Ghi Chú (40)
Yết ma, dịch nghĩa là tác pháp biện sự. Việc gì của tăng cũng phải do chư tăng quyết định mới thành tựu, đó gọi là Yết ma. Yết ma có đan bạch, bạch nhị và bạch tứ. Đan bạch là gặp những việc quá thường xuyên thì chỉ cần 1 lần tuyên cáo (tác bạch) mà thôi, không cần hỏi lại. Bạch nhị là gặp những việc hơi quan trọng, sợ xảy bất đồng ý về sau, nên phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 1 lần. Bạch tứ là gặp những việc quan trọng thì phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 3 lần. Tăng Yết ma có 4 loại, đó là 4 vị cho đan bạch, 5 vị cho bạch nhị, 10 vị cho bạch tứ, 20 vị cho sự xử tội tăng tàn. Số lượng này nhiều hơn thì được, thiếu đi thì không được.
Ghi Chú (41)
Đáng lẽ phải nói 3 y có cái cũ và hỏng. Nguyên do của giới này là vì có Tỳ kheo y Tăng già lê bị cũ và hỏng.
Ghi Chú (42)
Dịch sát và đủ, là nhận y của Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình.
Ghi Chú (43)
Dịch sát và đủ, là bảo Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình giặt giúp y cũ. Y cũ là y dầu mới mặc 1 lần.
Ghi Chú (44)
Dịch sát và đủ, là xin y nơi người cư sĩ không phải thân quyến.
Ghi Chú (45)
Dịch đủ và sát, là khuyên cư sĩ thêm giá tiền may y.
Ghi Chú (45b)
Lời xin tùy ý là thí chủ có lời xin nói trước rằng người lãnh nhận muốn sao cũng được.
Ghi Chú (46)
Dịch sát và đủ, là khuyên 2 nhà tăng thêm số tiền sắm y.
Ghi Chú (46b)
Có người hiểu và dịch 2/4 màu đen, 1/4 màu trắng, 1/4 màu lẫn lộn, nhưng không thể đồng ý là vì có chữ trái chính văn, và trộn lẫn lông dê như vậy thì cũng gần như đen. Dịch đúng chính văn là như đã dịch, và trộn lẫn lông dê như vậy thì sẽ ra hoại sắc hơn.
Ghi Chú (47)
Dịch sát và đủ, là ngọa cụ dùng dưới 6 năm.
Ghi Chú (48)
Dịch sát là tọa cụ không may chồng.
Ghi Chú (49)
Dịch sát là cầm lông dê quá hạn.
Ghi Chú (50)
Dịch sát và đủ là bảo Tỳ kheo ni không phải thân quyến giặt giúp lông dê.
Ghi Chú (51)
Dịch sát là cất giữ tiền, của báu.
Ghi Chú (52)
Dịch đủ là đổi chác tiền, của báu.
Ghi Chú (53)
Chính văn là mại mãi (bán mua) thì không chỉnh.
Ghi Chú (53b)
Trường bát, có ý kiến nói là bát dư thừa.
Ghi Chú (53c)
Chính văn là tối hạ, có người hiểu là bát cuối cùng, tức cái bát không ai muốn lấy, muốn đổi, nên cái bát ấy có thể chính là cái bát mới, được đem ra xả bỏ đó. Hiểu như vậy không đúng, bởi vì giới này bên Tỳ kheo ni nói rõ là hạ tọa (người dưới).
Ghi Chú (54)
Dịch đủ là xin chỉ sợi, bảo thợ dệt không phải thân quyến của mình dệt giúp.
Ghi Chú (55)
Dịch đủ là bảo thợ dệt dệt thêm chỉ sợi.
Ghi Chú (56)
Dịch sát và đủ là cất thuốc 7 ngày dùng quá thì hạn.
Ghi Chú (57)
Dịch sát và đủ, là kiếm khăn tắm mưa trước thì hạn, dùng khăn tắm mưa trước thì hạn. Khăn tắm mưa, chính văn là vũ y hay vũ dục y (khăn tắm mưa). Chữ y trong Luật có chỗ là y, có chỗ là vải, có chỗ là khăn. Ở đây là khăn.
Ghi Chú (58)
Mùa xuân còn 1 tháng là từ 16/3 đến 15/4. Mùa xuân còn nửa tháng là 1/4 đến 15/4. Trước kiết hạ hơn 1 tháng là trước 16/3. Trước kiết hạ hơn nửa tháng là trước 1/4. Tất cả đều là âm lịch.
Ghi Chú (59)
Dịch đủ và sát là trước ngày hết kiết hạ nhận y cúng gấp mà cất quá sau ngày hết kiết hạ.
Ghi Chú (60)
Dịch sát là 10 ngày chưa hết của 3 tháng kiết hạ; 10 ngày ấy là từ 6/7 đến 15/7.
Ghi Chú (61)
Thì hạn của y ấy, y ấy là y cúng vội vàng nói trên; thì hạn của y ấy là 1 tháng (16/7 đến 15/8) nếu không thọ công đức y, hoặc 5 tháng (16/7 đến 15/12) nếu có thọ công đức y.
Ghi Chú (62)
Dịch sát và đủ là ở chỗ a lan nhã có sự nghi ngại mà rời y quá thì hạn.
Ghi Chú (63)
Là rằm tháng 7 đến rằm tháng 8.
Ghi Chú (64)
A lan nhã là chỗ thanh vắng, xa làng xóm.
Ghi Chú (65)
Nói rõ là xoay vật người ta muốn cúng cho chư tăng mà cúng cho mình.
Ghi Chú (66)
Ba dật đề dịch nghĩa là đọa, là phạm những giới này nếu không sám hối giữa chư tăng thì sẽ bị đọa lạc.
Ghi Chú (67)
Biết ở đây là nói tắt mọi sự thấy nghe hay biết của 6 thức.
Ghi Chú (68)
Thành phần, chính văn là chủng loại, chỉ cho giai cấp, dòng họ, nghề nghiệp, v/v. Chưởi mắng ở đây bao gồm mọi sự nói hành, nói lóng, nói mỉa, v/v.
Ghi Chú (69)
Nói để ly gián, chính văn là lưỡng thiệt ngữ.
Ghi Chú (70)
Dịch đủ là ngủ cùng một nhà với nữ nhân.
Ghi Chú (71)
Dịch đủ là ngủ quá thì hạn với người chưa thọ cụ túc giới.
Ghi Chú (72)
Dịch đủ là cùng đọc tụng một cách ồn náo với người chưa thọ cụ túc giới.
Ghi Chú (73)
Dịch đủ là thật đắc đạo mà nói với cư sĩ.
Ghi Chú (74)
Dịch đủ là một mình thuyết pháp cho nữ nhân.
Ghi Chú (75)
5, 6 lời, cũng có thể dịch là pháp số 5 (như nói 5 uẩn vô ngã) và pháp số 6 (như nói 6 thức vô thường).
Ghi Chú (76)
Cây cối là chỗ ở của quỉ thần và sinh vật, nên những chữ chặt phá cây cối và sinh vật là bổ túc.
Ghi Chú (77)
Dịch đủ là trải đồ của chư tăng ra trên mặt đất trống.
Ghi Chú (78)
Giường giây là lòng giường đan sợi mây hay bất cứ sợi gì. Có chỗ giường giây là võng.
Ghi Chú (79)
Dịch đủ là trải đồ của chư tăng chỗ che.
Ghi Chú (80)
Dịch sát là cưỡng chiếm chỗ mà trải đồ ngồi. Chữ đồ ngồi không chỉnh.
Ghi Chú (81)
Dịch đủ là thuyết pháp cho ni đến trời tối.
Ghi Chú (82)
Dịch đủ là đem y cho ni không phải thân quyến của mình.
Ghi Chú (83)
Dịch đủ là may y cho ni không phải thân quyến của mình.
Ghi Chú (84)
Dịch đủ và rõ, là nhận quá giới hạn đồ ăn của qui phụ và thương gia.
Ghi Chú (85)
Phép ăn thừa (dư thực pháp) là, ví dụ Tỳ kheo mới ăn mà có việc đứng dậy, thì như thế là kể như ăn xong rồi. Vậy nếu cần ăn thêm thì phải làm phép ăn thừa, là đem đồ mình muốn ăn dọn cho một vị nào chưa ăn và nói, kính bạch đại đức, tôi là Tỳ kheo XX, đến trước đại đức làm phép ăn thừa, xin đại đức từ mẫn cho. Vị này xúc ăn vài muổng rồi trao lại, bảo ăn đi.
Ghi Chú (86)
Không phải giờ ăn (phi thời) là kể từ xế bóng ngày trước cho đến ngày sau trời chưa sáng.
Ghi Chú (87)
Dịch rõ là ăn thức ăn mà mình không hay chưa nhận lời mời.
Ghi Chú (88)
Dịch rõ là thức ăn và thuốc mà mình không hay chưa nhận lời mời mà đã bỏ vào miệng. Thuốc ở đây là sữa, mật, v/v.  
Ghi Chú (89)
Dịch đủ thì còn có cá và thịt. Ấy là thức ăn của tiểu thừa tùy thí tùy thực (cho gì ăn nấy).
Ghi Chú (90)
Dịch rõ là bữa ăn trước hay bữa ăn sau đều bỏ mà đi đến nhà khác. Bữa ăn trước là khi trời sáng cho đến giờ ngọ, bữa ăn sau là giờ ngọ.
Ghi Chú (91)
Dịch rõ là tại nhà ăn mà ngồi dai
Ghi Chú (92)
Nhà ăn (thực gia) và vật báu ở đây có cái nghĩa riêng ở đây, không phải cái nghĩa thông thường. Nghĩa thông thường thì nhà ăn là nhà mời ăn, vật báu là vàng ngọc (hoặc nói bóng người đẹp). Nhưng nghĩa ở đây thì nhà ăn là nhà có chồng vợ, ăn là chồng vợ ấy hành dâm hưởng lạc với nhau. (và vật báu có thể chỉ có nghĩa trong nhà ấy có chỗ cho vợ chồng hành dâm). Trong nhà ăn có vật báu như vậy mà họ mời ăn rồi không đi ngay thì rất chướng ngại cho họ, nhất là cho người chồng.
Ghi Chú (93)
Dịch rõ là tại nhà ăn mà ngồi chỗ khuất.
Ghi Chú (94)
Dịch rõ và đủ là một mình ngồi với nữ nhân ở chỗ đất trống.
Ghi Chú (95)
Dịch đủ là ở lại trong quân đội quá thì hạn.
Ghi Chú (96)
Dịch đủ và rõ, là y mình đã tịnh thí, rồi lấy lại dùng mà không nói cho người chủ của y được cho biết.
Ghi Chú (97)
Dịch đủ là gây thắc mắc, bực mình cho Tỳ kheo khác.
Ghi Chú (98)
Dịch đủ là độ cho người thiếu tuổi được thọ cụ túc giới.
Ghi Chú (99)
Dịch rõ là khơi lại 4 sự tranh cãi. Sự tranh cãi có 4, đó là 1, ngôn tranh, là tranh cãi vì bàn luận giới pháp; 2, mích tranh, là tranh cãi vì xoi bói tội lỗi; 3, phạm tranh, là tranh cãi về tội lỗi đã phạm; 4, sự tranh, là tranh cãi về công việc Yết ma. Cả 4 sự tranh cãi đều phải diệt bằng 7 cách diệt tránh. Khi Yết ma diệt tránh rồi mà ai còn gợi lại thì phạm Ba dật đề.
Ghi Chú (100)
Dịch đủ là chống lại sự can gián của chư tăng về sự nói càn rằng dâm dục không chướng ngại cho đạo.
Ghi Chú (101)
Dịch rõ là hùa theo Tỳ kheo bị cử tội.
Ghi Chú (102)
Dịch rõ là hùa theo Sa di bị đuổi.
Ghi Chú (103)
Dịch rõ là sợ bị cử tội nên nói trước (về giới điều mình phạm).
Ghi Chú (104)
Dịch rõ là hối tiếc sau khi cùng chúng Yết ma.
Ghi Chú (105)
Dịch đủ là lén nghe về 4 sự tranh cãi.
Ghi Chú (106)
Dịch sát là đánh Tỳ kheo lớn.
Ghi Chú (107)
Dịch rõ là phỉ báng người khác phạm tội tăng tàn.
Ghi Chú (108)
Dịch sát và đủ là không phải lúc mà đi vào xóm làng.
Ghi Chú (109)
Dịch đủ là dùng đâu la độn nệm. Đâu la là bông của mọi thứ cây cỏ (trong đó có bông gòn, bông vải) và kén tằm hoang.
Ghi Chú (110)
Dịch đủ là làm ống đựng kim bằng xương, nanh, sừng.
Ghi Chú (111)
Dịch đủ là làm ni sư đàn quá cỡ. Ni sư đàn là ngọa cụ (đồ nằm) tọa cụ (đồ ngồi) hay tùy tọa y (khăn để ngồi), nhưng dịch đúng là phu cụ (đồ trải ra để nằm ngồi).
Ghi Chú (112)
Dịch đủ là làm khăn che ghẻ quá cỡ.
Ghi Chú (113)
Dịch nghĩa là hướng bỉ hối, là những giới điều mà phạm vào chỉ cần sám hối với 1 Tỳ kheo khác.
Ghi Chú (114)
Dịch đủ là ở trong làng xóm, nhận lấy đồ ăn của Tỳ kheo ni không phải thân quyến.
Ghi Chú (115)
Dịch đủ là ăn đồ ăn do ni chỉ bảo.
Ghi Chú (116)
Chính văn là canh, nhưng rõ ràng chữ ấy, ở đây và sau đây, là đồ ăn, chứ không phải là canh như thường nói. Do vậy, chữ canh ấy được dịch là đồ ăn.
Ghi Chú (117)
Dịch sát là nhận đồ ăn của học gia. Học gia là tín đồ hy sinh cho đạo pháp đến nỗi phải nghèo thiếu. Đối với tín đồ như vậy, chư tăng phải Yết ma là học gia, chư tăng không được đến tín đồ ấy khất thực hay quyên góp gì nữa, trái lại còn giúp đỡ bằng cách đi khất thực rồi về nhà tín đồ ấy mà ăn để chia bớt cho họ, hoặc giao tài sản Tam bảo cho tín đồ ấy sinh lợi rồi chia một nửa lợi tức ấy cho họ. Tỳ kheo nào đến đâu cũng phải hỏi ở đó có học gia không kẻo phạm giới này, cũng như phải hỏi ở đó có hay không có chỗ phú bát (nhà có lỗi với chư tăng, chư tăng Yết ma không liên lạc với, cho đến khi biết hối lỗi).
Ghi Chú (118)
Dịch rõ là ăn ở chỗ vắng vẻ, đáng sợ.
Ghi Chú (119)
Phải học (ưng đương học), chính văn của Tứ phần luật hàm chú giới bản là Thức xoa ca la ni. Khác với 6 loại trước, loại thứ 7 này chính văn sách ấy chỉ tiêu đề có 54 giới, 46 giới còn lại không có tiêu đề (mặc dầu mục lục tiêu đề đủ cả 100 giới). Vì vậy tôi quyết định lấy chính văn của Tứ phần luật Tỳ kheo giới bản (của ngài Hoài Tố) mà thay vào. Chính văn sách này không dùng chữ Thức xoa ca la ni, mà dùng chữ chúng học pháp, ưng đương học, và không tiêu đề ghi số gì cả. Số tôi ghi là của Tứ phần luật hàm chú giới bản.
Ghi Chú (119b)
Dịch sát chính văn là mặc niết bàn tăng. Niết bàn tăng là nivasana (hoặc kusulaka), là quần, tức tấm vải quấn phần dưới thân thể như chư tăng nam tông. Quần như vậy quấn mặc và buộc bằng giây, hơi khó làm và giữ cho tề chỉnh. Tôi dịch thẳng là quần mà bỏ chữ niết bàn tăng, vì chữ này xúc phạm đến niết bàn và đến tăng quá.
Ghi Chú (120)
Xuống dòng như vầy là có ý sắp loại các giới điều này.
Ghi Chú (121)
Chú thích: để khỏi rơi đồ ăn xuống.
Ghi Chú (122)
Coi lại ghi chú 116.
Ghi Chú (123)
Chú thích: ăn không tuần tự là ngay trong bát mà đã lấy ăn lung tung.
Ghi Chú (124)
Dịch theo chú thích là một nửa vào miệng một nửa còn lại nơi tay.
Ghi Chú (124b)
Dịch đủ là nhai cơm. Nhưng đủ mà thiếu. Bất cứ nhai gì cũng không được ra tiếng, không phải chỉ nhai cơm.
Ghi Chú (125)
Có lẽ phải dịch là cầm đồ mà thôi (đồ đựng thức ăn thức uống).
Ghi Chú (126)
Là 7 cách diệt trừ sự tranh cãi. Phần này cũng lấy chính văn của Tứ phần luật Tỳ kheo giới bản. Về 7 cách diệt tránh này, nếu chư tăng có sự tranh cãi (coi ghi chú 99) thì phải dập tắt bằng 7 cách ấy. Nói đại khái và giản dị, thì một thành phần chư tăng có lỗi, nhất là lỗi ấy gây ra tranh cãi, thì hãy diệt sự tranh cãi ấy bằng cách cho hiện diện, cho nhớ lại, cho tỉnh trí, cho tự xử, cho tự xét, cho chung xét và cho qua loa. Nghĩa là bằng cách nào đó có lý có tình mà đem lại sự phục thiện và hoan hỷ là tốt. Giới của 7 cách này là sau khi diệt tránh bằng 7 cách rồi, ai còn khơi lại thì phạm tội và bị trị.

VI)- Tỳ kheo Ni Giới
Thích Trí Quang dịch giải
Mục lục
Ghi Sau Khi Duyệt Tỳ kheo Ni Giới
Tựa
Phần Đầu Tỳ kheo Ni Giới
1/ Tám Giới Khí
2/ Mười Bảy Giới Tăng tàn
3/ Ba mươi Giới Xả đọa
4/ Một Trăn Bảy Tám Giới Đọa
5/ Tám Giới Hối Quá *
6/ Một Trăm Giới Học
7/ Bảy Pháp Diệt tránh
8/ Lời Kết Thúc
9/ Phần Cuối Tỳ kheo Ni Giới
 
Ghi Sau Khi Duyệt Tỳ kheo Ni Giới
Ổn thỏa nhất là những gì cần làm cho Tỳ kheo giới và Tỳ kheo ni giới thì nên làm chung. Nhưng làm cho Tỳ kheo giới rồi tôi mới phát nguyện làm cho Tỳ kheo ni giới. Do đó, Tỳ kheo ni giới không có một ít điều tôi đã làm cho Tỳ kheo giới. Ngay lời ghi này cũng vậy. Những gì cần ghi, tôi đã ghi bên Tỳ kheo giới. Luật không ngăn cản Tỳ kheo coi Tỳ kheo ni giới hay ngăn cản Tỳ kheo ni coi Tỳ kheo giới. Vậy những gì bên Tỳ kheo giới, chư vị Tỳ kheo ni có thể thẩm cứu.
Dầu vậy, ở đây tôi muốn ghi về sự ăn thịt cá mà Tỳ kheo ni giới không dịch lược đi được. Mở rộng vấn đề một chút là nói về sự ăn chay ăn mặn.
Nguyên thỉ Phật giáo mà cái này mới chắc là nguyên thỉ thì tùy thí tùy thực (cho gì ăn nấy). Nếu tôi nhớ không lầm, thì trước thời Phật, các triết gia Upanisad đã ăn chay. Và ăn một cách nghiêm khắc, cái ăn đó có gây phiền phức. Cái ăn đó là một cực đoan. Rồi khi chống lại Phật, muốn lập Phật giáo riêng, Đề Bà Đạt Đa đưa ra 5 sự, trong đó điều thứ 5 là suốt đời không ăn thịt cá máu mỡ bơ sữa ở (Bà sa 116, Phật học đại từ điển trang 533 dẫn). Thế đó lại càng là cực đoan. Bây giờ ta giả thiết bên ăn chay đòi cho được đồ chay, bên ăn mặn đòi cho được đồ mặn, thì thế chính là cực đoan, gây bao phiền phức cho người cho.
Phật không như vậy. Phật giáo thì tăng ni đến gần giờ ăn mới đi khất thực. Khất thực thì ngay bữa ăn của người cho, họ bớt ra mà cúng dường. Bữa ăn của họ có gì, họ cũng cúng dường cái đó. Khất thực không đòi cho được đồ chay hay đồ mặn. Do vậy mà trong luật mới có giới điều nói về sự ăn cá thịt.
Đại thừa thì khác. Hãy gác vấn đề đại thừa có phải cũng là Phật giáo nguyên thỉ không, chỉ nói đại thừa cấm tuyệt sự ăn mọi thứ thịt, với ý thức ăn thịt là phản Phật tánh, là phi từ bi. Và sự cấm ăn thịt này thực sự tuyệt đối, cấm như sắc lịnh là bởi Lương Vũ Đế. Ngày nay nói Phật giáo là nói ăn chay. Ăn có thịt cá trở thành lạ lùng, khó nghe và khó coi.
Ghi như trên đây là để giải thích sự ăn có cá thịt trong Luật, cho thấy Phật tử phải ăn chay là vì sao.
Mười hai tháng 5, 2537
Hòa Thượng Thích Trí Quang

Tựa
Sau khi dịch Tỳ kheo giới rồi, để cầu siêu nhân kỵ mẹ tôi, tôi phát ra cái ý dịch luôn Tỳ kheo ni giới và Thức xoa ma na ni giới. Trước đây tôi đã dịch Sa di giới (Sa di luật nghi yếu lược) và Sa di ni giới (Sa di ni luật nghi yếu lược). Bồ tát giới thì đã được dịch lại, và lược giải khá kỷ năm 2531 (1987). Như vậy là tất cả giới luật của 5 chúng xuất gia đã dịch xong.
Tỳ kheo ni giới, khi tôi dịch, chỉ tìm thấy 3 bản. Bản 1 mang số 1481 của Đại tạng kinh bản Đại chính, do ngài Hoài Tố biên tập. Bản 2 của ngài Nguyên Chiếu, nằm trong Tục tạng kinh bản chữ Vạn, tập 64 các trang 1 12. Bản 3 là giới kinh thường tụng nếu tụng Hoa văn, do Phật giáo Bắc khắc và ấn hành. Cả 3 bản, không có bản nào được như Tứ phần luật hàm chú giới bản của Tỳ kheo giới, nên tôi chọn bản thường tụng làm chính văn.
Tài liệu tham khảo thì ngoài phần chính là Tứ phần luật (các cuốn 22 30), còn có những tài liệu sau đây. Tứ phần luật danh nghĩa tiêu thích (gọi tắt là Danh nghĩa), bộ này đích xác là tự điển và từ điển của Tứ phần luật, nằm trong Vạn 70/201 501. Trùng trị, phần Tỳ kheo ni giới (Vạn 63/292 307). Tỳ kheo giới, bản dịch của tôi. Một bản dịch Tỳ kheo ni giới không thấy tư tên người dịch.
Tỳ kheo ni giới không có cái phước được chính ngài Đạo Tuyên làm việc cho, như cuốn Tứ phần luật hàm chú giới bản.
Trong cách dịch của tôi nên nói về tên của các giới điều. Bởi thấy đa số tên ấy tóm tắt và nêu lên ý chính, nên tôi dịch và để trước các giới điều. Thế nhưng đến loại 6 và loại 7, tác dụng ấy không có bao nhiêu nên tôi không dịch nữa.
Nay nên nói nội dung của Tỳ kheo ni giới, bằng cách đối quán sơ lược với nhau giữa 5 bản Tỳ kheo ni giới của 5 bộ luật. Tỳ kheo ni giới có 7 loại. Trong đó, loại một là khí, thì 5 bộ luật đồng nhau; loại hai là Tăng tàn, thì Tăng kỳ có 19, Ngũ phần, Thập tụng và Tứ phần đều có 17, Hữu bộ có 20; loại ba là Xả đọa, thì Tăng kỳ, Ngũ phần, Thập tụng và Tứ phần đều có 30, Hữu bộ có 33; loại bốn là Đọa, thì Tăng kỳ có 141, Ngũ phần có 210, Thập tụng có 178, Tứ phần có 178, Hữu bộ có 180; loại năm là Hối quá, thì Tăng kỳ, Ngũ phần, Thập tụng và Tứ phần đều có 8, Hữu bộ có 11; loại sáu là Học pháp, thì Tăng kỳ có 65, Ngũ phần và Tứ phần đều có 100, Thập tụng có 107, Hữu bộ có 42; loại bảy là Diệt tránh, thì 4 bộ đều có 7, trừ Ngũ phần không có.
Bây giờ nói về đại thể của Tỳ kheo ni giới. Đại thể ấy có 2 phần: phần 1 là giới luật, phần 2 là oai nghi. Phần 1 là những giới điều cấm tội lỗi thật sự, phần 2 là những giới điều cấm cử động bất xứng. Tức như loại khí có thể nói là giới luật cả, loại học pháp có thể nói là oai nghi cả. Còn các loại khác thì có giới là giới luật, có giới là oai nghi, có giới là cả hai. Tất cả giới luật và oai nghi như vậy tạo thành một bậc Chúng trung tôn.
Đến đây hãy nêu lên mấy điều. Một, ngôn ngữ của giới này ai nghe thì đừng kinh quái, phát ngượng, mà phải nghĩ đến ơn Phật, đã ly ái nhiễm, đã đắc thanh tịnh, nhưng vì chúng ta nên kiết giới với những lời chữ không phải mỹ từ ở (Thiện kiến, Vạn 64/1 dẫn). Hai, về trường hợp có ra giới pháp thì đời Phật, tập thể Tỳ kheo ni cũng không ít, vậy mà chỉ có 6 bà gọi là lục quần Tỳ kheo ni, và năm ba vị nữa, có những cử động bất xứng, chứng tỏ tập thể Tỳ kheo ni ấy xứng đáng không ít. Ba, số lượng của giới điều thật ra cũng không nhiều lắm, dò kỹ sẽ thấy con số 348 có thể qui nạp còn quá nửa mà thôi. Bốn, giới điều nhiều đến mấy đi nữa mà, như Tứ phần luật nói, hễ có thiểu dục tri túc (kèm theo là tàm quí) thì giữ được hết cả, kể cả khai giá (linh động và hạn chế) của mỗi giới điều cũng thấy ra và giữ trọn.
Ai cũng có cái hảo tâm xuất gia ban đầu. Ai đứng trước Phật cũng muốn mình xứng đáng với Ngài. Nhưng chỉ có giới luật mới làm mình xứng đáng với Phật và không phụ hảo tâm của mình.
Mồng 7 tháng 6, 2535 (1991)
Hòa thượng Thích Trí quang

Phần Đầu Tỳ kheo Ni Giới
Cúi đầu kính lạy
chư Phật, Phật pháp
và Tỳ kheo tăng.
Nay tụng Giới kinh (1)
là để làm cho
Phật pháp thường còn.
Giới như biển cả
không có bờ mé,
lại như ngọc báu
cầu hoài không chán.
Muốn giữ tài sản
của các Thánh giả (2),
đại chúng họp lại
nghe tôi tụng Giới.
Muốn trừ bốn thứ
gọi là tội khí,
muốn diệt mười ba
tội lỗi Tăng tàn,
muốn ngăn ba mươi
tội lỗi Xả đọa (3),
đại chúng họp lại
nghe tôi tụng Giới.
Đức Tỳ Bà Thi
cùng đức Thi Khí
đức Tỳ Xá Phù
đức Câu Lưu Tôn
đức Câu Na Hàm
cùng đức Ca Diếp
và đức Thích Ca,
chư Phật như vậy
đã thuyết Giới kinh (4),
nay tôi tụng lại
Giới kinh như vậy,
đại chúng cùng nghe.
Ví như có người
chân đã thương tổn
thì không thể nào
tự đi đến đâu,
người nào phá giới
thì cũng như vậy
không thể sinh trong
chư thiên nhân loại.
Muốn sinh chư thiên
hay sinh nhân loại,
thì phải giữ lấy
đôi chân giới pháp,
đừng để có điều
vi phạm thương tổn.
Như người đánh xe
đi vào đường hiểm
thì lo xe ấy
rơi chốt gãy trục,
người mà phá giới
thì cũng như vậy,
đối diện cái chết
lòng đầy lo sợ.
Như người soi gương
thấy đẹp thì thích
thấy xấu thì rầu,
tụng giới cũng vậy
giới toàn thì mừng
giới hỏng thì lo.
Hai quân đánh nhau
ai gan thì tiến
ai khiếp thì thoái,
tụng giới cũng vậy
trong sạch: yên tâm
dơ bẩn: lo sợ.
Trong cả mọi người
vua là hơn hết,
trong các dòng nước
biển là hơn hết,
trong các sao đêm
trăng là hơn hết,
trong các vị thánh
Phật là hơn hết,
trong các giới luật (5)
Giới kinh hơn hết,
nên đức Thế Tôn
đã qui định rằng
cứ mỗi nửa tháng
phải tụng một lần.
Tăng tập hợp chưa? Đáp: tăng đã tập hợp.
Tăng hòa hợp không? Đáp: tăng hòa hợp.
Người chưa thọ đại giới đã ra chưa? Nếu có thì bảo ra và đáp: người chưa thọ đại giới đã ra; nếu không thì đáp: trong đây không có người chưa thọ đại giới.
Các vị Tỳ kheo ni không đến đây có nói dữ dục và thanh tịnh (6) không? Nếu có thì đáp có và thưa đúng cách, nếu không thì đáp trong đây không có người nói dữ dục và thanh tịnh.
Hôm nay tăng hòa hợp để làm gì? Đáp: để Yết ma tụng giới.
Đại tỷ tăng nghe cho, hôm nay là ngày 15, ngày tăng Bố tát tụng giới, nếu tăng thấy đến lúc (7), tăng chấp thuận, thì hòa hợp Bố tát tụng giới. Xin tác bạch như vậy. Tác bạch thành không? Đáp: thành.

Tỷ kheo ni giới
Lời Mở Đầu
Bạch chư đại tỷ, nay tôi sắp tụng Ba la đề mộc xoa. Chư vị Tỳ kheo ni cùng tập hợp một chỗ. Chư vị hãy lắng, và nhớ nghĩ cho khéo. Nếu tự biết có phạm giới thì phải tự sám hối, không phạm giới thì hãy im lặng. Vì im lặng mà biết chư đại tỷ thanh tịnh. Nếu có ai hỏi thì cũng trả lời như vậy. Thế nên vị Tỳ kheo ni ở trong đại chúng được hỏi đến lần thứ 3 và nhớ nghĩ mình có tội mà không phát lộ, thì bị tội cố ý nói dối. Mà nói dối thì Phật đã dạy là sự cản trở thánh đạo (8). Nếu vị Tỳ kheo ni nhớ nghĩ mình có tội và muốn được thanh tịnh thì phải sám hối. Sám hối thì yên vui.
Bạch chư đại tỷ, tôi đã nói lời nói đầu của Giới kinh. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong lời nói đầu ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong lời nói đầu ấy chư vị thanh tịnh cả, vì chư vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc (9) như vậy.

1/ Tám Giới Khí
Bạch chư đại tỷ, 8 giới Ba la di (10) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới làm sự bất tịnh. Nếu Tỳ kheo ni dâm dục, phạm vào sự bất tịnh (11) cho đến cùng với súc vật, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung (12) với chư tăng.
Thứ 2 giới lấy của không cho. Nếu Tỳ kheo ni ở trong xóm làng hay nơi vắng vẻ, lấy của người ta không cho với ý thức ăn trộm; tùy tội lấy của không cho mà bị vua, hay đại thần của vua, bắt, giết, trói, đuổi ra khỏi xứ, mắng rằng chị là giặc, chị ngu si, chị không biết gì. Nếu Tỳ kheo ni làm sự lấy của không cho như vậy thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng.
Thứ 3 giới sát hại mạng người. Nếu Tỳ kheo ni cố ý tự tay sát hại mạng người, hoặc cầm dao đưa cho người, hoặc khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, rằng quái lạ, người kia, sống khốn nạn như vậy làm gì, thà chết, đừng sống; với ý thức như vậy mà nghĩ mọi cách để khen ngợi sự chết, khuyến khích sự chết, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng.
Thứ 4 giới vọng ngữ loại lớn. Nếu Tỳ kheo ni thật không biết gì mà tự khen tôi được pháp của bậc thượng nhân, tôi đã nhập vào pháp siêu việt của thánh trí, tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy; qua thời gian khác, hoặc được hỏi hoặc không được hỏi, mà muốn tự thanh tịnh nên nói rằng, các đại tỷ, tôi thật không biết không thấy gì mà nói biết nói thấy, vọng ngữ dối trá, thì, trừ tăng thượng mạn, phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng.
Thứ 5 giới nhiễm tâm xoa chạm. Nếu Tỳ kheo ni tâm ô nhiễm, cùng với người nam có tâm ô nhiễm, từ kẻ nách sắp xuống, từ đầu gối trở lên, hai thân thể chạm nhau, hoặc bóp hoặc xoa, hoặc kéo hoặc đẩy, hoặc xoa trên hoặc xoa dưới, hoặc bồng lên hoặc bế xuống, hoặc nắm hoặc bóp mạnh, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng, vì lẽ thân thể chạm nhau.
Thứ 6 giới nhiễm tâm tám sự. Nếu Tỳ kheo ni có tâm ô nhiễm, biết người nam cũng có tâm ô nhiễm, mà chịu cho nắm tay, nắm áo, vào chỗ khuất, đứng chung, nói chung, đi chung, thân thể dựa nhau, cùng nhau hẹn hò (13), thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng, vì lẽ phạm vào tám sự.
Thứ 7 giới giấu che tội nặng. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo ni khác phạm Ba la di mà mình không phát lộ, không nói với Tỳ kheo ni khác, không thưa với đại chúng; qua thời gian khác, Tỳ kheo ni phạm tội hoặc chết, hoặc bị đại chúng cử tội, hoặc thôi tu, hoặc theo ngoại đạo, Tỳ kheo ni ấy bấy giờ mới nói, rằng trước đây tôi biết người này có tội như vậy như vậy, thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng, vì lẽ che giấu tội nặng.
Thứ 8 giới theo kẻ bị cử. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo bị chư tăng cử tội một cách đúng giáo pháp, đúng giới luật, đúng Phật huấn dụ, nhưng Tỳ kheo kia không phục tùng, không sám hối, và chư tăng chưa làm Yết ma sống chung cho. Vậy mà Tỳ kheo ni ấy thuận tùng Tỳ kheo kia. Các Tỳ kheo ni can gián, rằng đại tỷ, Tỳ kheo kia bị chư tăng cử tội một cách đúng giáo pháp, đúng giới luật, đúng Phật huấn dụ, nhưng Tỳ kheo kia không phục tùng, không sám hối, và chư tăng chưa làm Yết ma sống chung cho, thì đại tỷ đừng thuận tùng. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ hai và lần thứ ba, vì để cho Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ ba mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm Ba la di của Tỳ kheo ni, không còn được sống chung với chư tăng, vì lẽ phạm vào sự thuận tùng kẻ bị chư tăng cử tội (14).

Bạch chư đại tỷ, tôi đã nói 8 giới Ba la di. Nếu Tỳ kheo ni phạm vào mỗi một Ba la di, thì không còn được sống chung với chư Tỳ kheo ni. Như khi chưa thọ đại giới, thọ đại giới rồi mà vi phạm thì cũng vậy. Nên Tỳ kheo ni bị tội Ba la di thì không nên sống chung với chư tăng. Vậy nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 8 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 8 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

2/ Mười Bảy Giới Tăng tàn
Bạch chư đại tỷ, 17 giới Tăng già bà thi sa (15) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới làm người mai mối. Nếu Tỳ kheo ni làm mai mối, đem lời người nam nói với người nữ, đem lời người nữ nói với người nam, để làm cho họ lấy nhau hay tư thông với nhau, thì, dầu chỉ chốc lát, Tỳ kheo ni ấy cũng phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm (16).
Thứ 2 giới vu khống phỉ báng. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận, không hoan hỷ, nên, một cách vô căn cứ, phỉ báng vị khác phạm tội Ba la di, phỉ báng với ý thức muốn phá hoại sự thanh tịnh của vị ấy; rồi trong thời gian khác, được hỏi hay không được hỏi, Tỳ kheo ni ấy biết đó là sự phỉ báng vô căn cứ, và nói rằng vì tôi tức giận nên phỉ báng như vậy, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 3 giới xuyên tạc phỉ báng. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận, không hoan hỷ, nên lấy một cạnh khía của việc khác, đối với vị Tỳ kheo ni không phạm Ba la di mà, một cách vô căn cứ, phỉ báng rằng phạm tội Ba la di, với ý thức phá hoại sự thanh tịnh của vị ấy; đến thời gian khác, được hỏi hay không được hỏi, Tỳ kheo ni ấy biết mình lấy một cạnh khía của việc khác, tự nói vì tôi tức giận nên phỉ báng như vậy, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 4 giới đến quan thưa kiện. Nếu Tỳ kheo ni đến quan thưa kiện cư sĩ hay con cư sĩ, tôi tớ hay người làm thuê, thưa kiện một ngày, một đêm, một khoảnh khắc, một khảy móng tay, một giây phút, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 5 giới biết mà độ giặc. Nếu Tỳ kheo ni biết trước là nữ tặc, tội đáng chết, ai cũng biết, vậy mà không hỏi vua hay đại thần, không hỏi thành phần xã hội (17) của nữ tặc, độ cho xuất gia và thọ cụ túc giới liền, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 6 giới giải cho bị cử. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo ni khác bị chư tăng cử tội đúng giáo pháp, đúng giới luật, đúng Phật huấn dụ, mà không phục tùng, không sám hối, và chư tăng chưa làm Yết ma sống chung cho; vậy mà vì tình riêng, không hỏi chư tăng, chư tăng cũng không chỉ thị, vẫn ra khỏi cương giới làm Yết ma giải tội cho Tỳ kheo ni kia, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 7 giới đi riêng ngủ lại. Nếu Tỳ kheo ni một mình lội nước, một mình vào làng, một mình ngủ lại, một mình đi sau, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 8 giới nhiễm tâm nhận ăn. Nếu Tỳ kheo ni tâm ô nhiễm, biết người nam cũng tâm ô nhiễm, vậy mà từ người nam ấy nhận những thứ có thể ăn được, những thức ăn, những đồ vật khác, thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới phạm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 9 giới khuyên nhận nhiễm thực. (18). Nếu Tỳ kheo ni khuyên Tỳ kheo ni khác, bằng cách nói như vầy, đại tỷ, người nam kia có nhiễm tâm hay không nhiễm tâm thì hại gì đại tỷ. Đại tỷ bản thân không có nhiễm tâm thì nếu được thức ăn nơi người nam kia, cứ đúng thời gian thích hợp mà nhận lấy. Khuyên như vậy thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại mới làm là thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 10 giới phá tăng hòa hợp. Nếu Tỳ kheo ni muốn phá hoại tăng hòa hợp (19) nên hành động mọi cách phá hoại tăng hòa hợp, chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên trì không bỏ. Các vị Tỳ kheo ni nên can gián Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ, đừng phá hoại tăng hòa hợp, đừng hành động mọi cách phá hoại tăng hòa hợp, đừng chấp nhận mọi cách phá hoại tăng hòa hợp mà kiên trì không bỏ. Đại tỷ hãy cùng tăng hòa hợp; cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng học một thầy (20), như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 11 giới hỗ trợ phá tăng (21). Nếu Tỳ kheo ni ấy có các Tỳ kheo ni khác làm phe cánh, một người, hai người, ba người, cho đến vô số người; những Tỳ kheo ni phe cánh này nói với các Tỳ kheo ni, rằng các đại tỷ, xin đừng can gián Tỳ kheo ni ấy, Tỳ kheo ni ấy là Tỳ kheo ni nói đúng giáo pháp, Tỳ kheo ni nói đúng giới luật, Tỳ kheo ni ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỳ kheo ni ấy nói chúng tôi chấp nhận. Các Tỳ kheo ni nói với các Tỳ kheo ni phe cánh, rằng các đại tỷ, đừng nói như vậy, rằng Tỳ kheo ni ấy là Tỳ kheo ni nói đúng giáo pháp, Tỳ kheo ni nói đúng giới luật, Tỳ kheo ni ấy nói chúng tôi ưa thích, Tỳ kheo ni ấy nói chúng tôi chấp nhận. Bởi vì Tỳ kheo ni ấy nói không phải nói đúng giáo pháp, không phải nói đúng giới luật. Các đại tỷ, đừng có ý muốn phá hoại tăng hòa hợp; các đại tỷ, hãy thích thú tăng hòa hợp. Các đại tỷ, hãy cùng tăng hòa hợp, hoan hỷ, không tranh chấp, cùng học một thầy, như nước với sữa hòa nhau, thì trong Phật pháp sẽ có đời sống tăng ích, yên vui. Những Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để những Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 12 giới hoen ố tín đồ (22). Nếu Tỳ kheo ni sống trong thành thị hay xóm làng mà làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu (23), làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe. Các vị Tỳ kheo ni can gián Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ, đại tỷ đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe; đại tỷ đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu thì nay hãy đi xa khỏi xóm làng này, đừng nên ở đây nữa. Tỳ kheo ni ấy nói với các vị Tỳ kheo ni, rằng chư đại tỷ, các Tỳ kheo ni có tham, có sân, có si, có sợ; có cái việc những Tỳ kheo ni đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Các vị Tỳ kheo ni can rằng, đại tỷ, đừng nói như vậy, rằng các vị Tỳ kheo ni có tham, có sân, có si, có sợ, có cái việc những Tỳ kheo ni đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Bởi vì các vị Tỳ kheo ni không tham, không sân, không si, không sợ, không cái việc những Tỳ kheo ni đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Đại tỷ đã làm hoen ố tín đồ và làm những việc xấu, làm hoen ố tín đồ ai cũng thấy nghe, làm những việc xấu ai cũng thấy nghe. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 13 giới ngoan cố chống cự. Nếu Tỳ kheo ni tính tình ngoan cố, không nghe ai hết; trong giới luật, các vị Tỳ kheo ni đã can gián đúng phép mà bản thân Tỳ kheo ni ấy không chịu sự can gián ấy, bằng cách nói rằng, chư đại tỷ, đừng hướng về tôi mà nói tôi tốt hay tôi xấu, tôi cũng không hướng về chư đại tỷ mà nói các vị tốt hay các vị xấu. Chư đại tỷ hãy thôi đi, đừng luôn luôn can gián tôi. Các vị Tỳ kheo ni can gián Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ, đừng nên chính mình không chịu ai can gián. Đại tỷ nên chính mình chịu can gián. Đại tỷ hãy can gián chư Tỳ kheo ni một cách đúng phép, chư Tỳ kheo ni cũng can gián đại tỷ một cách đúng phép. Làm như vậy thì đệ tử của Phật được tăng ích nhờ can gián cho nhau, chỉ dạy cho nhau, sám hối với nhau. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 14 giới thân nhau giấu lỗi. Nếu Tỳ kheo ni sống gần gũi với nhau mà cùng làm những điều bất thiện, tiếng xấu lan tràn mà lần lượt che giấu tội lỗi cho nhau. Các Tỳ kheo ni khác nên can gián những Tỳ kheo ni ấy, rằng các đại tỷ, đừng gần gũi nhau mà cùng làm những điều bất thiện, tiếng xấu lan tràn, rồi che giấu tội lỗi cho nhau. Các vị nếu không gần gũi với nhau như vậy, thì trong Phật pháp các vị sẽ được đời sống tăng ích và yên vui. Những Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để những Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì những Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 15 giới bảo đừng ở riêng. Nếu Tỳ kheo ni khi bị Tỳ kheo ni tăng quở trách can gián, Tỳ kheo ni khác chỉ bày như vầy, đại tỷ đừng chịu sống riêng, hãy cứ sống chung. Tôi thấy có các Tỳ kheo ni không chịu sống riêng, sống chung mà cùng làm những điều bất thiện, tiếng xấu lan tràn và che giấu tội lỗi cho nhau. Chư Tỳ kheo ni tăng vì tức giận nên bảo đại tỷ sống riêng mà thôi. Các Tỳ kheo ni nên can gián Tỳ kheo ni khác ấy, rằng đại tỷ chớ bảo Tỳ kheo ni ấy đừng chịu sống riêng, chớ nói tôi thấy có các vị Tỳ kheo ni sống chung mà cùng làm những điều bất thiện, tiếng xấu lan tràn và che giấu tội lỗi cho nhau; chư Tỳ kheo ni tăng vì tức giận nên bảo đại tỷ sống riêng mà thôi. Nay đúng ra chỉ có 2 Tỳ kheo ni là các vị sống chung mà cùng làm những điều bất thiện, tiếng xấu lan tràn mà che giấu tội lỗi cho nhau, chứ không còn có ai khác nữa. Nếu các vị sống riêng thì trong Phật pháp các vị sẽ có đời sống tăng ích và yên vui. Tỳ kheo ni khác ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni khác ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ kheo ni khác ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 16 giới giận bỏ Tam bảo. Nếu Tỳ kheo ni vì một việc nhỏ nhặt, tức giận không vui, liền nói rằng tôi bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng; thế gian này không phải chỉ có Sa môn Thích tử, mà còn có Sa môn bà la môn khác cũng tu phạn hạnh, tôi cũng có thể tu phạn hạnh với họ. Các Tỳ kheo ni hãy can gián Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ đừng vội vàng vì một việc nhỏ nhặt, tức giận không vui mà nói liền rằng tôi bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, thế gian này không phải chỉ có Sa môn Thích tử, mà còn có Sa môn bà la môn khác cũng tu phạn hạnh, tôi cũng có thể tu phạn hạnh với họ. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.
Thứ 17 giới ưa cãi không nhớ. Nếu Tỳ kheo ni ưa tranh cãi vì không nhớ sự việc tranh cãi, lại tức giận mà nói rằng chư tăng có tham, có sân, có si, có sợ. Các Tỳ kheo ni phải can Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ, đừng ưa tranh cãi vì không khéo nhớ sự việc tranh cãi, lại tức giận mà nói rằng chư tăng có tham, có sân, có si, có sợ. Thật ra chư tăng không tham, không sân, không si, không sợ, mà đại tỷ tự mình có tham, có sân, có si, có sợ. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không thì Tỳ kheo ni ấy phạm Tăng già bà thi sa, loại sau 3 lần can gián mới thành tội và phải bỏ mà đừng phạm.

Bạch chư đại tỷ, tôi đã nói 17 giới Tăng già bà thi sa mà 9 giới trước thì mới phạm là thành tội, 8 giới sau thì sau 3 lần can gián mới thành tội. Nếu Tỳ kheo ni phạm mỗi một giới, thì chư tăng 2 bộ phải buộc Tỳ kheo ni ấy nửa tháng thi hành phép hoan hỷ (24). Thi hành phép hoan hỷ rồi chư tăng giải tội cho. Phải giữa chư tăng 40 vị của 2 bộ mà giải tội cho Tỳ kheo ni ấy; nếu thiếu 1 vị, không đủ 40 vị, thì có giải tội đi nữa, tội của Tỳ kheo ni ấy cũng không giải được, mà chư tăng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni (25) cũng đáng khiển trách. Đó là trường hợp (26) này. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 17 giới Tăng già bà thi sa ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 17 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

3/ Ba mươi Giới Xả đọa
Bạch chư đại tỷ, 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề (27) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới cất y quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni 5 y đã hoàn chỉnh, y công đức (28) đã xả, mà cất giữ trường y (29) trong 10 ngày, thì không làm tịnh thí (30) cũng được cất giữ, nhưng quá hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 2 giới rời y mà ngủ. Nếu Tỳ kheo ni 5 y (31) hoàn chỉnh, y công đức đã xả, mà trong 5 y rời 1 y ngủ khác chỗ trong 1 đêm, thì, trừ được tăng Yết ma (32) cho phép, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 3 giới cất vải quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni 5 y hoàn chỉnh (33), y công đức đã xả, nhưng Tỳ kheo ni ấy được vải phi thời, vậy cần thì cứ nhận, nhận rồi may y cho mau thành. Nếu vải đủ thì tốt, nếu vải không đủ thì được phép cất lại 1 tháng, chờ cho đủ vải. Nếu cất lại quá hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 4 giới xin y không thân. Nếu Tỳ kheo ni xin y nơi cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình, thì, trừ trường hợp khác, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Trường hợp khác là nếu y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, như vậy gọi là trường hợp khác.
Thứ 5 giới lấy vải quá phận. Nếu Tỳ kheo ni y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, và nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình tự ý xin cho nhiều vải, thì Tỳ kheo ni ấy nên nhận vải ấy theo sự biết vừa đủ. Nếu nhận nhiều quá thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 6 giới xin thêm tiền y. Nếu Tỳ kheo ni có cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho Tỳ kheo ni ấy, nói rằng sắm số tiền may y như vậy để cúng cho Tỳ kheo ni tên như vậy. Tỳ kheo ni ấy trước không có nhận lời xin tùy ý (34), vậy mà vì muốn được y tốt nên đến nhà cư sĩ, nói như thế này: tốt lắm, cư sĩ, hãy vì tôi mà sắm giá tiền như vậy cho tôi. Như vậy mà được y thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 7 giới khuyên chung tiền lại. Nếu Tỳ kheo ni có 2 cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền mua y cho Tỳ kheo ni ấy, nói rằng chúng ta mua y như vậy để cúng cho Tỳ kheo ni tên như vậy. Tỳ kheo ni ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, vậy mà vì muốn được y tốt nên đến nhà 2 cư sĩ nói như vầy: tốt lắm, cư sĩ, hãy sắm tiền mua y như vậy, chung nhau mà mua cho tôi 1 cái y. Như vậy mà được y thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 8 giới đòi y quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni có vua, đại thần, bà la môn, cư sĩ và vợ cư sĩ, phái người đưa số tiền sắm y đến cho Tỳ kheo ni ấy, nói rằng hãy cầm tiền sắm y này đến đưa cho vị Tỳ kheo ni tên như vậy. Người được phái đến chỗ Tỳ kheo ni ấy, nói với Tỳ kheo ni ấy, rằng bạch đại tỷ, nay con đem tiền sắm y đến cho bà, xin bà nhận lấy. Tỳ kheo ni ấy nói như thế này với người được phái, rằng tôi không nên nhận số tiền sắm y này; nếu khi tôi cần y thì phải đúng lúc và thanh tịnh mới nhận được. Người được phái nói với Tỳ kheo ni ấy, rằng bạch đại tỷ, bà có người giúp việc không? Tỳ kheo ni ấy nói có; có người ở trong chùa kia, có người nữ cư sĩ kia, họ là những người giúp việc của các Tỳ kheo ni, thường giúp việc cho các vị. Bấy giờ người được phái đi đến nơi người giúp việc, giao số tiền sắm y, rồi trở lại chỗ Tỳ kheo ni ấy mà nói như vầy: bạch đại tỷ, người giúp việc tên như vậy, mà bà đã chỉ, con đã giao cho người ấy số tiền sắm y. Khi nào bà thấy đúng lúc thì xin bà đến người ấy, sẽ sắm được y. Tỳ kheo ni ấy khi cần y thì nên đến người giúp việc mà, lần thứ hai và lần thứ ba, nhắc cho người ấy nhớ, bằng cách nói rằng tôi cần y; nếu lần thứ hai và lần thứ ba nhắc cho người ấy nhớ mà được y thì tốt. Nếu không được y thì lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu, hãy yên lặng đứng trước người ấy cho người ấy nhớ; nếu lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu, yên lặng đứng trước người ấy mà được y thì tốt. Nếu không được y mà đòi quá giới hạn nói trên để cho được y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Nếu không được y thì tự mình đi hay phái người đi, đến nơi người cho tiền sắm y mà nói, rằng trước đây người phái người đem tiền sắm y đến cho tôi, Tỳ kheo ni tên như vậy; nhưng rốt cuộc tôi không được y, vậy người hãy đi lấy về, đừng để mất đi. Đó là trường hợp có thể làm.
Thứ 9 giới cầm lấy tiền của. Nếu Tỳ kheo ni tự tay cầm lấy bạc vàng hay tiền, hoặc bảo người cầm lấy, hoặc nhận lấy bằng cách miệng nói được (35), thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 10 giới bán mua (36) bảo vật. Nếu Tỳ kheo ni mà bán mua các thứ bảo vật, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 11 giới buôn bán các thứ. Nếu Tỳ kheo ni mà mua rẻ bán đắt mọi thứ thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 12 giới kiếm bát quá phận. Nếu Tỳ kheo ni dùng cái bát chưa đủ 5 chỗ hàn bịt, bát ấy cũng chưa rỉ nước, vậy mà thay vào đó đi tìm bát mới cho đẹp, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Tỳ kheo ni ấy nên đem cái bát mới ấy đến giữa ni chúng mà xả bỏ. Ni chúng tuần tự đem đổi từ thượng tọa đến hạ tọa, lấy cái bát của hạ tọa đưa cho Tỳ kheo ni ấy, và nói rằng hiền muội (37) dùng cái bát này cho đến bể. Đó là đúng trường hợp.
Thứ 13 giới kiếm chỉ dệt y. Nếu Tỳ kheo ni tự xin chỉ sợi, bảo thợ dệt không phải thân quyến của mình dệt y giúp, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 14 giới bảo thợ dệt thêm. Nếu Tỳ kheo ni có cư sĩ hay vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt y cho Tỳ kheo ni ấy. Tỳ kheo ni ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, lại đi đến chỗ thợ dệt, bảo rằng y này là dệt cho tôi, vậy anh dệt giúp cho thật đẹp, dệt cho rộng và bền, tốn thêm nhiều ít gì tôi cũng trả cho anh. Tỳ kheo ni ấy trả thêm tiền dầu chỉ đáng giá một bữa ăn mà được y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 15 giới đoạt lấy y lại. Nếu Tỳ kheo ni trước cho y Tỳ kheo ni khác, sau vì tức giận nên tự đoạt lại, hay bảo người đoạt, và rằng hãy trả y lại cho tôi, tôi không cho đại tỷ nữa. Tỳ kheo ni này trả y, mà Tỳ kheo ni ấy lấy y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 16 giới cất thuốc quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni có bịnh, cất thuốc như sữa tô, dầu, sữa tô tươi, mật ong, đường phèn, được dùng cách đêm cho đến 7 ngày. Nếu quá 7 ngày mà còn dùng thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 17 giới cất y cúng gấp. Nếu Tỳ kheo ni còn 10 ngày nữa thì hết kiết hạ 3 tháng (38), chư Tỳ kheo ni được phép nhận y cúng vội vàng. Tỳ kheo ni ấy biết là y cúng vội vàng thì nên nhận, nhận rồi được cất giữ trong thì hạn của y ấy (39). Nếu cất giữ quá thì hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 18 giới xoay vật chư tăng. Nếu Tỳ kheo ni biết đó là vật người ta muốn hiến cúng cho chư tăng, mà mình tìm cách xoay lại hiến cúng cho mình, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 19 giới đòi vầy đòi khác. Nếu Tỳ kheo ni muốn đòi hỏi cái này lại đòi hỏi cái khác, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 20 giới tiền đường làm y. Nếu Tỳ kheo ni biết đàn việt hiến cho chư tăng là để làm pháp đường, vậy mà mình đổi ra làm những việc khác, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề (40).
Thứ 21 giới tiền ăn làm y. Nếu Tỳ kheo ni biết đàn việt hiến cho chư tăng là để ăn, mình kiếm cũng là kiếm cho chư tăng ăn, vậy mà mình đổi ra làm những việc khác, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 22 giới tiền phòng làm y. Nếu Tỳ kheo ni biết đàn việt hiến cho chư tăng là để làm phòng, vậy mà mình đổi ra làm những việc khác, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 23 giới tiền nhà làm y. Nếu Tỳ kheo ni biết đàn việt hiến cho chư tăng là để làm nhà, mình kiếm cũng là kiếm để làm nhà cho chư tăng, vậy mà mình đổi ra làm những việc khác, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 24 giới cất trường bát tốt. Nếu Tỳ kheo ni cất giữ trường bát (41) mà không tịnh thí, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 25 giới cất nhiều đồ tốt. Nếu Tỳ kheo ni cất nhiều đồ màu tốt, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 26 giới không cho bịnh y. Nếu Tỳ kheo ni hứa cho bịnh y (42) cho Tỳ kheo ni khác, nhưng rồi không cho, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 27 giới y thời phi thời. Nếu Tỳ kheo ni đem phi thời y làm thời y (43), thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 28 giới giận lấy y lại. Nếu Tỳ kheo ni đã đổi y cho Tỳ kheo ni khác rồi, sau đó tức giận nên tự đoạt lại hay bảo người đoạt lại, rằng hiền muội hãy trả y lại cho tôi, tôi không cho hiền muội nữa; y của tôi hiền muội trả cho tôi, y của hiền muội tôi trả cho hiền muội. Đoạt lại như vậy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 29 giới áo dày quá giá. Nếu Tỳ kheo ni xin áo dày thì chỉ được ngang với giá tiền 4 tấm vải mịn (44); quá giá ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Thứ 30 giới áo mỏng quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni muốn xin áo mỏng (45) thì cao lắm cũng chỉ đến giá tiền 2 tấm rưỡi vải mịn; quá giá ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.
Bạch chư đại tỷ, tôi đã nói 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 30 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 30 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

4/ Một Trăn Bảy Tám Giới Đọa
Bạch chư đại tỷ, 178 giới Ba dật đề (46) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới cố ý nói dối. Nếu Tỳ kheo ni cố ý nói dối, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 2 giới chưởi mắng thành phần (47). Nếu Tỳ kheo ni chưởi mắng, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 3 giới nói để ly gián. Nếu Tỳ kheo ni nói ly gián thì phạm Ba dật đề.
Thứ 4 giới ngủ cùng một nhà. Nếu Tỳ kheo ni cùng người nam ngủ một nhà thì phạm Ba dật đề.
Thứ 5 giới ngủ quá thì hạn. Nếu Tỳ kheo ni cùng ngủ một nhà với người nữ chưa thọ đại giới mà quá 3 đêm, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 6 giới đọc tụng ồn náo. Nếu Tỳ kheo ni cùng với người chưa thọ đại giới đọc tụng kinh pháp một cách ồn náo, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 7 giới nói tội lỗi nặng. Nếu Tỳ kheo ni biết người có tội lỗi nặng mà đem nói với người chưa thọ đại giới, thì, trừ tăng Yết ma sai bảo, phạm Ba dật đề.
Thứ 8 giới nói thật đắc đạo. Nếu Tỳ kheo ni nói với người chưa thọ đại giới, rằng tôi được cái pháp hơn người, rằng tôi thấy như vậy, tôi biết như vậy; nói thật như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 9 giới một mình thuyết pháp. Nếu Tỳ kheo ni thuyết pháp cho người nam mà quá năm sáu lời (48), thì, trừ sự có mặt của nữ nhân trí thức, phạm Ba dật đề.
Thứ 10 giới đào cuốc đất đai. Nếu Tỳ kheo ni tự tay đào đất hay bảo người đào đất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 11 giới chặt phá cây sống. Nếu Tỳ kheo ni chặt phá cây cối, có nghĩa phá hủy chỗ ở của quỉ thần và sinh vật (49), thì phạm Ba dật đề.
Thứ 12 giới nói làm bực mình. Nếu Tỳ kheo ni bày đặt nói quanh để làm người khác bực mình, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 13 giới ghét mắng tri sự. Nếu Tỳ kheo ni ghét mắng chức sự của chư tăng thì phạm Ba dật đề.
Thứ 14 giới trải đồ đất trống. Nếu Tỳ kheo ni đem đồ của chư tăng như giường giây (50), giường cây, đồ nằm và nệm ngồi, tự sắp ra trên mặt đất trống, hay bảo người sắp ra, dùng rồi bỏ đó mà đi, không tự xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 15 giới trải đồ chỗ che. Nếu Tỳ kheo ni sắp đồ nằm của chư tăng ra trong tăng phòng, tự mình sắp ra hay bảo người sắp ra, hoặc ngồi hoặc nằm, rồi bỏ đó mà đi, không tự xếp cất, cũng không bảo ai xếp cất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 16 giới cưỡng chiếm chỗ nằm. Nếu Tỳ kheo ni biết chỗ của Tỳ kheo ni ở trước, mình đến sau mà cưỡng chiếm ở giữa, trải đồ nằm ra ngủ nghỉ, với ý nghĩ rằng nếu Tỳ kheo ni ở trước hiềm chật quá thì sẽ tự tránh mình mà đi. Ấy là muốn làm như thế chứ không có lý do gì khác. Phi uy nghi như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 17 giới lôi ra khỏi phòng. Nếu Tỳ kheo ni tức giận, không ưa Tỳ kheo ni khác, nên trong phòng của chư tăng mà tự mình lôi ra hay bảo người lôi ra, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 18 giới ngồi giường sút chân. Nếu Tỳ kheo ni ở trên gác, mà ngồi hay nằm trên giường giây hay giường cây sút chân, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 19 giới dùng nước có trùng. Nếu Tỳ kheo ni biết nước có trùng mà tự đem dội trên đất trên cỏ, hay bảo người dội, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 20 giới lợp nhà quá mức. Nếu Tỳ kheo ni làm phòng hay nhà lớn, có cửa cánh, cửa sổ, và những đồ trang trí khác, thì chỉ bảo lợp tranh chừng hai hay ba lớp. Lợp quá thì phạm Ba dật đề.
Thứ 21 giới ăn quá một bữa. Nếu Tỳ kheo ni có thí chủ chỉ cúng một bữa ăn, Tỳ kheo ni ấy không bịnh thì nên ăn một bữa thôi. Nếu ăn quá đi thì phạm Ba dật đề.
Thứ 22 giới ăn riêng tăng chúng. Nếu Tỳ kheo ni ăn riêng tăng chúng thì, trừ các trường hợp khác, phạm Ba dật đề. Các trường hợp khác là khi bịnh, khi may y gấp, khi có người dâng y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại chúng tập hợp, khi Sa môn của ngoại đạo mời ăn, đó gọi là các trường hợp khác.
Thứ 23 giới nhận quá giới hạn. Nếu Tỳ kheo ni đến nhà cư sĩ tha thiết thỉnh Tỳ kheo ni để cúng bánh, miến và cơm, Tỳ kheo ni ấy nếu cần thì nhận vài ba bát, đem về trong chùa nên chia cho các Tỳ kheo ni khác cùng ăn. Nếu Tỳ kheo ni ấy không bịnh mà nhận quá vài ba bát, đem về trong chùa cũng không chia cho các Tỳ kheo ni khác cùng ăn, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 24 giới ăn lúc phi thời. Nếu Tỳ kheo ni ăn lúc không phải giờ ăn (51), ăn như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 25 giới ăn đồ cách đêm. Nếu Tỳ kheo ni đồ ăn để cách đêm mà ăn thì phạm Ba dật đề.
Thứ 26 giới ăn đồ không nhận. Nếu Tỳ kheo ni đối với thức ăn hay thuốc mình không nhận lời mời mà đã bỏ vào miệng (52) thì, trừ nước và tăm, phạm Ba dật đề.
Thứ 27 giới đi mà không nói. Nếu Tỳ kheo ni trước đã nhận lời mời về bữa ăn trước hay bữa ăn sau (53), rồi đi đến nhà khác mà không dặn lại cho các Tỳ kheo ni, thì, trừ trường hợp khác, phạm Ba dật đề. Trường hợp khác là bịnh, may y, cho y, đó gọi là trường hợp khác.
Thứ 28 giới nhà ăn ngồi dai. Nếu Tỳ kheo ni tại nhà ăn có vật báu (54) mà mình miễn cưỡng ngồi dai, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 29 giới nhà ăn ngồi khuất. Nếu Tỳ kheo ni tại nhà ăn có vật báu mà mình ngồi chỗ khuất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 30 giới ngồi với người nam. Nếu Tỳ kheo ni một mình cùng với người nam ngồi chung một chỗ ở đất trống, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 31 giới đuổi người đi đi. Nếu Tỳ kheo ni nói với Tỳ kheo ni khác như vầy, đại tỷ, đi với tôi đến xóm làng, sẽ có thức ăn cho đại tỷ. Nhưng đến rồi, Tỳ kheo ni ấy đã không khuyên cúng thức ăn cho Tỳ kheo ni khác này, mà lại bảo đại tỷ đi đi, tôi cùng đại tỷ ngồi hay nói với nhau một chỗ thì tôi không ưa, tôi ngồi một mình nói một mình thì thích hơn. Chỉ vì lý do như vậy, chứ không có lý do gì khác hơn mà tìm cách xua đuổi người khác đi đi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 32 giới nhận thuốc quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni được xin cho thuốc 4 tháng, Tỳ kheo ni ấy không bịnh cũng nên nhận. Nhưng nếu nhận quá thì hạn ấy, thì, trừ người ta xin cho luôn, xin cho thêm, xin chia mà cho, xin cho suốt đời, phạm Ba dật đề.
Thứ 33 giới đi coi quân trận. Nếu Tỳ kheo ni đi coi quân trận thì, trừ trường hợp có lý do, phạm Ba dật đề.
Thứ 34 giới trong quân quá hạn. Nếu Tỳ kheo ni có lý do thì được phép đến trong quân đội tá túc 2 đêm 3 đêm, quá thì hạn ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 35 giới coi quân diễn tập. Nếu Tỳ kheo ni được phép tá túc trong quân đội vài ba đêm mà hoặc coi quân đội dàn trận, hoặc coi lực lượng tượng binh lính diễn tập, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 36 giới uống các thứ rượu. Nếu Tỳ kheo ni uống các thứ rượu thì phạm Ba dật đề.
Thứ 37 giới đùa giỡn dưới nước. Nếu Tỳ kheo ni đùa giỡn dưới nước thì phạm Ba dật đề.
Thứ 38 giới thọc léc người khác. Nếu Tỳ kheo ni lấy ngón tay ngón chân thọc léc Tỳ kheo ni khác thì phạm Ba dật đề.
Thứ 39 giới không nhận khuyên can. Nếu Tỳ kheo ni không chấp nhận mọi sự khuyên can thì phạm Ba dật đề.
Thứ 40 giới dọa cho người sợ. Nếu Tỳ kheo ni dọa cho Tỳ kheo ni khác sợ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 41 giới tắm dưới nửa tháng. Nếu Tỳ kheo ni thì nửa tháng tắm rửa. Tỳ kheo ni không bịnh thì nên nhận như vậy. Nếu nhiều hơn thì, trừ trường hợp khác, phạm Ba dật đề. Trường hợp khác là khi nóng, khi bịnh, khi làm việc, khi bị gió lớn, khi bị mưa, khi đến từ đường xa, đó gọi là những trường hợp khác.
Thứ 42 giới đốt lửa đất trống. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, mà chỉ vì sưởi ấm nên tự đốt lửa giữa đất trống hay bảo người đốt, thì, trừ trường hợp có lý do, phạm Ba dật đề.
Thứ 43 giới cất giấu vật dụng. Nếu Tỳ kheo ni cất giấu vật dụng của Tỳ kheo ni khác như y, bát, đồ ngồi, ống kim, mình tự cất giấu hay bảo người cất giấu, ít nhất chỉ để giỡn chơi thôi, cũng phạm Ba dật đề.
Thứ 44 giới cho rồi lấy lại. Nếu Tỳ kheo ni đã đem y cho Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na, sa di, sa di ni rồi, sau đó không nói với người chủ của y được cho, mà lấy lại dùng, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 45 giới dùng y mới nguyên. Nếu Tỳ kheo ni được có y mới nguyên, thì nên dùng 3 màu nhuộm cho hỏng nguyên màu đi, đó là màu xanh, màu đen, màu nấu vỏ cây mọẤc lan. Nếu Tỳ kheo ni ấy không lấy màu xanh, màu đen, màu nấu vỏ cây mộc lan, 3 màu nhuộm cho hỏng nguyên màu đi, mà dùng y mới nguyên, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 46 giới cố hại súc sinh. Nếu Tỳ kheo ni cố hại tính mạng súc sinh, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 47 giới uống nước có trùng. Nếu Tỳ kheo ni biết nước có trùng mà vẫn uống vẫn dùng, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 48 giới quấy rối người khác. Nếu Tỳ kheo ni cố ý làm bực mình Tỳ kheo ni khác, thì dầu làm cho chốc lát không vui thôi cũng phạm Ba dật đề.
Thứ 49 giới che giấu tội người. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo ni khác phạm tội nặng mà che giấu thì phạm Ba dật đề.
Thứ 50 giới khơi sự tranh cãi (55). Nếu Tỳ kheo ni biết sự tranh cãi đã sám hối đúng phép rồi, mà sau đó mình còn khơi dậy trở lại, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 51 giới hẹn đi với giặc. Nếu Tỳ kheo ni biết là giặc mà hẹn cùng đi một đường, thì dẫu đi chỉ bằng đến một thôn cũng phạm Ba dật đề.
Thứ 52 giới chống can nói càn. Nếu Tỳ kheo ni nói như vầy: theo tôi biết giáo pháp Phật nói thì hành dâm không phải là sự chướng đạo. Tỳ kheo ni khác can Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ, đừng nói như vậy, đừng phỉ báng đức Thế Tôn. Phỉ báng đức Thế Tôn thì không tốt. Đức Thế Tôn không nói như vậy. Đức Thế Tôn đã dùng nhiều cách nói rằng dâm dục là chướng đạo, phạm vào dâm dục là chướng đạo. Tỳ kheo ni khác can gián Tỳ kheo ni ấy mà Tỳ kheo ni ấy kiên trì không bỏ, thì Tỳ kheo ni khác phải can gián đến lần thứ 3 để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 53 giới theo người có lỗi. Nếu Tỳ kheo ni biết Tỳ kheo ni nói "theo tôi biết giáo pháp Phật nói thì hành dâm không phải là sự chướng đạo" đang bị cử tội mà chưa được tác pháp giải tội, sự thấy biết sai lầm đến như vậy cũng không chịu từ bỏ; biết như vậy mà vẫn chứa chấp, vẫn cùng Yết ma, vẫn cùng ngủ nghỉ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 54 giới dung kẻ bị đuổi. Nếu Tỳ kheo ni biết sa di ni nói như vầy: tôi nghe Phật nói hành dâm không phải là sự chướng đạo. Các vị Tỳ kheo ni can gián sa di ni ấy, bằng cách nói rằng cô đừng nói như vậy, đừng phỉ báng đức Thế Tôn, phỉ báng đức Thế Tôn thì không tốt; đức Thế Tôn không dạy như cô nói. Này, sa di ni, đức Thế Tôn đã dùng nhiều cách nói dâm dục là chướng đạo, phạm vào dâm dục là chướng đạo. Các vị Tỳ kheo ni can gián như vậy mà sa di ni ấy kiên trì không bỏ, thì các vị Tỳ kheo ni nên can gián đến lần thứ 3 để sa di ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Nếu can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt. Nếu không bỏ thì các vị Tỳ kheo ni nên bảo sa di ni ấy, rằng từ nay sắp đi cô không phải là đệ tử của Phật, không còn được theo các vị Tỳ kheo ni, các sa di ni khác được ngủ một phòng với Tỳ kheo ni 2 đêm thì cô không còn được sự ấy nữa: cô hãy đi ra đi, hãy đi mất đi, không nên ở đây nữa. Nếu Tỳ kheo ni biết sa di ni ấy bị chư tăng đuổi như vậy mà chứa chấp, cho ở chung ngủ chung, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 55 giới chống cự khuyên học. Nếu Tỳ kheo ni khi được các Tỳ kheo ni đúng phép can gián, mà nói như vầy: tôi nay không học giới này, tôi sẽ gạn hỏi vị trì luật nào có trí tuệ, thì phạm Ba dật đề. Nếu muốn học thật thì lại cần phải gạn hỏi.
Thứ 56 giới phỉ báng giới pháp. Nếu Tỳ kheo ni khi nghe thuyết giới mà nói như vầy: đại tỷ cần gì phải nói những giới điều vụn vặt như vậy. Nói những giới điều như vậy chỉ làm người bực mình, xấu hổ, thắc mắc. Vì khinh chê giới pháp nên phạm Ba dật đề.
Thứ 57 giới sợ nên nói trước. Nếu Tỳ kheo ni khi nghe thuyết giới mà nói như vầy: nay tôi mới biết giới điều này mỗi nửa tháng tụng một lần, rút ra từ trong Giới kinh. Nhưng các Tỳ kheo ni khác biết Tỳ kheo ni ấy đã 2 lần 3 lần ngồi nơi chỗ thuyết giới, huống chi đã nhiều lần. Tỳ kheo ni ấy nói không hiểu biết, vậy nếu phạm tội thì phải đúng pháp mà trị tội đã phạm, lại trị thêm tội không hiểu biết; hãy bảo rằng, đại tỷ không được lợi ích, chỉ được bất thiện, ấy là khi nghe thuyết giới mà đại tỷ không dụng tâm ghi nhớ, không nghe với một lòng và hai tai. Ấy vậy, không hiểu biết giới điều thì phạm Ba dật đề.
Thứ 58 giới Yết ma rồi hối. Nếu Tỳ kheo ni chung cùng Yết ma rồi, sau đó nói rằng các Tỳ kheo ni theo bạn thân nên lấy vật của chư tăng mà cho họ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 59 giới không nói dữ dục. Nếu Tỳ kheo ni, chư tăng xử việc chưa xong, mình không nói dữ dục mà đứng dậy đi ra, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 60 giới dữ dục rồi hối. Nếu Tỳ kheo ni dữ dục rồi sau đó trách móc, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 61 giới lén nghe tranh cãi. Nếu Tỳ kheo ni, các Tỳ kheo ni tranh cãi với nhau, mình lén nghe rồi đem lời ấy nói với người khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 62 giới đánh Tỳ kheo ni. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận không vui mà đánh Tỳ kheo ni khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 63 giới tát Tỳ kheo ni. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận không vui mà lấy tay tát Tỳ kheo ni khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 64 giới vu khống phạm tội. Nếu Tỳ kheo ni vì tức giận nên đem sự vô căn cứ mà phỉ báng Tỳ kheo ni khác phạm Tăng già bà thi sa, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 65 giới vào cửa cung vua. Nếu Tỳ kheo ni, có vua thuộc dòng Sát lợi, rưới nước đỉnh đầu lúc đăng quang, vua này chưa ra khách, chưa cất bảo vật, mà mình đi vào, nếu bước qua ngưỡng cửa cung vua, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 66 giới cầm giữ vàng ngọc. Nếu Tỳ kheo ni đối với vàng ngọc hay đồ trang sức bằng vàng ngọc, mà mình tự cầm giữ hay bảo người cầm giữ, thì, trừ trong chùa và chỗ ngủ nhờ, phạm Ba dật đề. Trong chùa và chỗ ngủ nhờ mà cầm giữ vàng ngọc hay đồ trang sức bằng vàng ngọc, tự mình cầm giữ hay bảo người cầm giữ, thì nên nghĩ rằng để người chủ nhớ mà đến lấy: vì ý nghĩ ấy chứ không vì gì khác.
Thứ 67 giới đi không phải lúc. Nếu Tỳ kheo ni đi vào xóm làng không phải lúc, mà không dặn lại Tỳ kheo ni khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 68 giới làm giường quá cỡ. Nếu Tỳ kheo ni làm giường giây giường cây, thì chân chỉ cao bằng 8 ngón tay của Phật, trừ chỗ vô mộng hớt rồi. Nếu quá cỡ ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 69 giới dồn bông độn nệm. Nếu Tỳ kheo ni dồn đâu la (56) độn nệm lót giường giây giường cây, hay độn ngọa cụ tọa cụ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 70 giới ăn các thứ tỏi (57). Nếu Tỳ kheo ni ăn các thứ tỏi thì phạm Ba dật đề.
Thứ 71 giới cạo lông 3 chỗ. Nếu Tỳ kheo ni cạo lông 3 chỗ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 72 giới dùng quá giới hạn. Nếu Tỳ kheo ni dùng nước tác tịnh thì nên giới hạn 2 ngón tay, mỗi ngón 1 đốt (58), nếu quá giới hạn ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 73 giới chế ra nam căn. Nếu Tỳ kheo ni dùng hồ giao làm nam căn thì phạm Ba dật đề.
Thứ 74 giới cùng vỗ với nhau. Nếu Tỳ kheo ni vỗ nhau thì phạm Ba dật đề.
Thứ 75 giới bưng nước và quạt. Nếu Tỳ kheo ni đối với Tỳ kheo không bịnh mà khi vị ấy ăn, mình bưng nước, đứng trước mặt lấy quạt mà quạt, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 76 giới xin cho lúa sống. Nếu Tỳ kheo ni xin lúa sống (59) thì phạm Ba dật đề.
Thứ 77 giới tiện lợi trên cỏ. Nếu Tỳ kheo ni trên cỏ tươi mà đại tiện tiểu tiện thì phạm Ba dật đề.
Thứ 78 giới đổ bậy đồ dơ. Nếu Tỳ kheo ni ban đêm đại tiện tiểu tiện trong đồ chứa, sáng sớm không nhìn ngoài tường mà đổ xuống, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 79 giới xem nghe kỹ nhạc. Nếu Tỳ kheo ni đi xem nghe kỹ nhạc (60) thì phạm Ba dật đề.
Thứ 80 giới đứng khuất trong xóm. Nếu Tỳ kheo ni vào trong làng xóm, cùng với người nam đứng và nói chuyện ở chỗ khuất, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 81 giới đi vào chỗ khuất. Nếu Tỳ kheo ni cùng với người nam đi vào chỗ khuất và có vật ngăn che, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 82 giới đứng chung nói thầm. Nếu Tỳ kheo ni vào trong làng trong hẻm, bảo bạn đi xa đi, rồi cùng người nam ở chỗ khuất, đứng chung và kề tai mà nói, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 83 giới không nói mà đi. Nếu Tỳ kheo ni vào ngồi nhà cư sĩ, rồi bỏ đi mà không nói với chủ nhân, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 84 giới không nói mà ngồi. Nếu Tỳ kheo ni vào trong nhà cư sĩ, không nói với chủ nhân mà ngồi liền xuống giường ghế, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 85 giới không nói mà ngủ. Nếu Tỳ kheo ni vào trong nhà cư sĩ, không nói với chủ nhân, liền tự sắp chỗ mà ngồi, ngủ, nghỉ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 86 giới cùng vào nhà tối. Nếu Tỳ kheo ni cùng người nam vào trong nhà tối, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 87 giới không rõ lời nghe. Nếu Tỳ kheo ni không thẩm định lời nói mình tiếp nhận mà đã nói ngay với người khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 88 giới việc nhỏ mà thề. Nếu Tỳ kheo ni có lý do hay sự việc nhỏ nhặt mà liền thề đọa ác đạo, không sinh trong Phật pháp (60b), rằng nếu tôi có việc như vậy thì đọa ác đạo, không sinh trong Phật pháp, nếu cô có việc như vậy thì cũng đọa ác đạo, không sinh trong Phật pháp. Thề như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 89 giới đấm ngực khóc la. Nếu Tỳ kheo ni tranh cãi với người khác vì không khéo nhớ sự việc tranh cãi, rồi đấm ngực khóc la, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 90 giới không bịnh nằm chung. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh mà 2 người nằm chung 1 giường thì phạm Ba dật đề.
Thứ 91 giới nằm chung chăn nệm. Nếu Tỳ kheo ni nằm chung một nệm, cùng một chăn, thì, trừ trường hợp khác (61), phạm Ba dật đề.
Thứ 92 giới hỏi để quấy rối. Nếu Tỳ kheo ni biết người ở trước mình đến sau, biết người đến sau mình ở trước, vì quấy rầy người ấy nên ở trước mặt họ mà tụng kinh, hỏi nghĩa, chỉ dạy, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 93 giới không trông nom bịnh. Nếu Tỳ kheo ni có Tỳ kheo ni sống chung bị bịnh mà không trông nom, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 94 giới an cư mà đuổi. Nếu Tỳ kheo ni đầu an cư thì cho các Tỳ kheo ni khác đặt giường trong phòng mình, sau đó tức giận đuổi ra, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 95 giới ba mùa du hành. Nếu Tỳ kheo ni mùa xuân mùa hạ mùa đông, tất cả các mùa đều du hành dân gian, thì, trừ lý do trường hợp khác (62), phạm Ba dật đề.
Thứ 96 giới an cư rồi ở. Nếu Tỳ kheo ni kiết hạ an cư rồi mà không ra đi (63), thì phạm Ba dật đề.
Thứ 97 giới đi ngoài khu vức. Nếu Tỳ kheo ni ngoài khu vức có chỗ nghi là đáng sợ, vậy mà vẫn đi vào dân gian, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 98 giới đi trong khu vức. Nếu Tỳ kheo ni trong khu vức có chỗ nghi là đáng sợ, vậy mà vẫn đi vào dân gian, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 99 giới thân cận cư sĩ. Nếu Tỳ kheo ni thân thiết với cư sĩ và con cư sĩ, sống chung, rồi làm hạnh bất tùy thuận. Các Tỳ kheo ni khác can gián Tỳ kheo ni ấy, rằng đại tỷ, đừng có thân thiết với cư sĩ và con cư sĩ, sống chung, rồi làm hạnh bất tùy thuận. Đại tỷ hãy sống riêng. Sống riêng thì trong Phật pháp sẽ có đời sống tăng ích và yên vui. Tỳ kheo ni ấy khi được các Tỳ kheo ni khác can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, thì các Tỳ kheo ni khác nên can gián đến lần thứ 3, vì để Tỳ kheo ni ấy bỏ sự kiên trì ấy đi. Can gián đến lần thứ 3 mà bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 100 giới đi xem hoàng cung. Nếu Tỳ kheo ni đến xem hoàng cung với điện đường sơn vẽ, vườn rừng hồ tắm, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 101 giới khỏa thân tắm sông. Nếu Tỳ kheo ni khỏa thân tắm trong nước sông, nước suối, nước kênh, nước hồ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 102 giới khăn tắm quá cỡ. Nếu Tỳ kheo ni làm khăn tắm thì phải làm đúng cỡ. Làm đúng cỡ là dài bằng 6 gang tay của Phật, rộng bằng 2 gang rưỡi. Nếu quá cỡ ấy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 103 giới may y quá ngày. Nếu Tỳ kheo ni may y Tăng già lê quá 5 ngày thì, trừ xin y Tăng già lê, xả y công đức, hay 6 nạn xảy ra (64), phạm Ba dật đề.
Thứ 104 giới không coi sóc y. Nếu Tỳ kheo ni quá 5 ngày (65) không coi sóc y Tăng già lê, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 105 giới cản ngăn cúng y. Nếu Tỳ kheo ni ngăn cản cúng y cho chư tăng thì phạm Ba dật đề.
Thứ 106 giới mang y không hỏi. Nếu Tỳ kheo ni không hỏi người có y mà tự tiện mang y của họ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 107 giới cho ngoại đạo y. Nếu Tỳ kheo ni cầm y Sa môn mà cho ngoại đạo hay cư sĩ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 108 giới cản tăng chia y. Nếu Tỳ kheo ni vì sợ đệ tử không được phần nên có ý thức ngăn cản chư tăng chia y đúng phép, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 109 giới khiến tăng không xả. Nếu Tỳ kheo ni vì muốn hưởng lâu 5 sự, nên có ý thức làm cho chư tăng hiện không xả y công đức, để sau sẽ xả, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 110 giới ngăn cản ni tăng. Nếu Tỳ kheo ni vì muốn hưởng lâu 5 sự, nên có ý thức ngăn cản Tỳ kheo ni tăng xả công đức y, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 111 giới không diệt tranh cãi. Nếu Tỳ kheo ni có Tỳ kheo ni khác nói với, rằng xin diệt trừ sự tranh cãi ấy cho tôi, vậy mà Tỳ kheo ni ấy không thực thi phương tiện gì để diệt trừ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 112 giới cho ngoại đạo ăn. Nếu Tỳ kheo ni tự tay đưa thức ăn cho cư sĩ và ngoại đạo ăn thì phạm Ba dật đề.
Thứ 113 giới làm người sai phái. Nếu Tỳ kheo ni làm người sai sử cho cư sĩ thì phạm Ba dật đề.
Thứ 114 giới xe chỉ đánh sợi. Nếu Tỳ kheo ni tự tay xe chỉ đánh sợi thì phạm Ba dật đề.
Thứ 115 giới nằm ngồi giường người. Nếu Tỳ kheo ni vào trong nhà cư sĩ mà ngồi hay nằm trên giường nhỏ giường lớn của họ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 116 giới ngủ rồi không từ. Nếu Tỳ kheo ni đến nhà cư sĩ bảo chủ nhân sắp chỗ để ngủ lại, sáng ngày đi mà không cáo từ chủ nhân, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 117 giới tụng tập chú thuật. Nếu Tỳ kheo ni tụng tập chú thuật của thế tục, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 118 giới dạy tập chú thuật. Nếu Tỳ kheo ni chỉ dạy cho người tụng tập chú thuật của thế tục, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 119 giới độ người có thai. Nếu Tỳ kheo ni biết phụ nữ mang thai mà vẫn độ cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 120 giới độ người con bú. Nếu Tỳ kheo ni biết phụ nữ có con còn bú mà vẫn cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 121 giới độ người thiếu tuổi. Nếu Tỳ kheo ni biết thiếu nữ tuổi chưa đầy 20 mà vẫn cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 122 giới không cho học giới. Nếu Tỳ kheo ni đối với thiếu nữ tuổi đã 18, không cho họ 2 năm học giới, cứ tuổi đủ 20 là cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 123 giới không cho 6 pháp. Nếu Tỳ kheo ni đối với thiếu nữ tuổi đã 18, cho 2 năm học giới mà không cho 6 pháp, cứ tuổi đủ 20 là cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 124 giới không cho cứ thọ. Nếu Tỳ kheo ni đối với thiếu nữ tuổi đã 18, cho 2 năm học giới, cho 6 pháp, tuổi đủ 20, nhưng chư tăng không cho (66) mà mình vẫn cho liền lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 125 giới thiếu năm cho thọ. Nếu Tỳ kheo ni độ cho người nữ đã kết hôn, thì 10 năm mới cho 2 năm học giới; đủ 12 năm (67) như vậy mới cho lãnh thọ cụ túc giới. Nếu dưới 12 năm mà cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 126 giới không thưa mà cho. Nếu Tỳ kheo ni độ cho người nữ đã kết hôn, cho 2 năm học giới, nghĩa là đủ 12 năm rồi, nhưng không tác bạch chư tăng mà vẫn cho liền lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 127 giới độ cho người xấu. Nếu Tỳ kheo ni biết nữ nhân là người như vậy như vậy (68) mà vẫn cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 128 giới độ người trái phép. Nếu Tỳ kheo ni độ nhiều đệ tử, không dạy 2 năm học giới, không đem 2 pháp (69) nhiếp hóa, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 129 giới không nương tựa thầy. Nếu Tỳ kheo ni không có 2 năm theo hòa thượng ni, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 130 giới không cho mà thọ. Nếu Tỳ kheo ni chư tăng không cho mà vẫn truyền thọ cụ túc giới cho người, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 131 giới chưa đủ truyền giới. Nếu Tỳ kheo ni tuổi hạ chưa đủ 12 năm mà truyền thọ cụ túc giới cho người, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 132 giới không cho mà truyền. Nếu Tỳ kheo ni tuổi hạ đã đủ 12 năm, nhưng chư tăng không cho mà vẫn tự tiện truyền thọ cụ túc giới cho người, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 133 giới phỉ báng không cho. Nếu Tỳ kheo ni chư tăng không cho truyền thọ cụ túc giới cho người, liền nói chư tăng có tham có sân có si có sợ, muốn cho thì cho, muốn không thì không, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 134 giới không được đồng ý. Nếu Tỳ kheo ni, cha mẹ hay chồng của nữ nhân không đồng ý, mà mình vẫn cho nữ nhân ấy lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 135 giới độ cho đang yêu. Nếu Tỳ kheo ni biết thiếu nữ đang yêu mến thiếu niên thanh niên nào đó, rồi biến thành thiếu nữ sầu muộn cáu kỉnh, mà vẫn độ cho xuất gia, lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 136 giới không cho thọ giới. Nếu Tỳ kheo ni nói với Thức xoa ma na, rằng cô em, hãy bỏ cái này, hãy học cái kia, tôi sẽ cho cô em lãnh thọ cụ túc giới. Nói như vậy mà nếu sau đó không tìm cách cho Thức xoa ma na kia lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 137 giới nhận mà không cho. Nếu Tỳ kheo ni nói với Thức xoa ma na, rằng đem y đến cúng cho tôi, tôi sẽ cho cô em lãnh thọ cụ túc giới. Nói như vậy mà rồi không tìm cách cho Thức xoa ma na kia lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 138 giới truyền giới mau quá. Nếu Tỳ kheo ni chưa đủ 12 tháng nữa mà đã truyền thọ cụ túc giới cho người khác nữa, thì phạm Ba dật đề (70).
Thứ 139 giới để cách 1 đêm. Nếu Tỳ kheo ni cho người lãnh thọ cụ túc giới rồi, để qua 1 đêm mới đến giữa Tỳ kheo tăng cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 140 giới không thọ giáo thọ. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh mà không đến lãnh thọ sự giáo thọ của Tỳ kheo, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 141 giới không cầu giáo thọ. Nếu Tỳ kheo ni thì nửa tháng phải đến Tỳ kheo tăng mà cầu giáo thọ. Nếu không cầu thì phạm Ba dật đề.
Thứ 142 giới không cầu tự tứ. Nếu Tỳ kheo ni tăng thì kiết hạ an cư rồi, phải đến giữa Tỳ kheo tăng cầu 3 sự tự tứ, đó là thấy, nghe, nghi. Nếu không thì phạm Ba dật đề.
Thứ 143 giới an cư không tăng. Nếu Tỳ kheo ni ở chỗ không có Tỳ kheo mà kiết hạ an cư, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 144 giới không thưa vào chùa. Nếu Tỳ kheo ni biết Tăng già lam có Tỳ kheo, không thưa mà vào, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 145 giới mạ lị Tỳ kheo. Nếu Tỳ kheo ni mắng Tỳ kheo thì phạm Ba dật đề.
Thứ 146 giới tranh cãi không nhớ. Nếu Tỳ kheo ni ưa tranh cãi vì không khéo nhớ sự việc tranh cãi, sau đó giận dữ không vui, mắng Tỳ kheo ni chúng, thì phạm Ba dật đề
Thứ 147 giới mổ nhọt không thưa. Nếu Tỳ kheo ni thân thể sinh ung nhọt và các thứ ghẻ chốc, không bạch trong chúng, không nói với ai, mà nhờ liền người nam mổ hay băng, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 148 giới ăn rồi ăn nữa. Nếu Tỳ kheo ni trước nhận lời thỉnh mời, ăn đủ rồi, sau đó lại ăn cơm, miến, cơm chiên (71), thì phạm Ba dật đề.
Thứ 149 giới ganh ghét với thầy. Nếu Tỳ kheo ni đối với thầy (72) mình mà sinh tâm ganh ghét, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 150 giới hương liệu xoa mình. Nếu Tỳ kheo ni dùng hương liệu mà xoa xát thân thể, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 151 giới dầu mè xoa mình. Nếu Tỳ kheo ni lấy cặn dầu mè (73) mà xoa xát thân thể, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 152 giới bảo đồng giới xoa. Nếu Tỳ kheo ni bảo Tỳ kheo ni xoa xát thân thể thì phạm Ba dật đề.
Thứ 153 giới bảo Thức xoa xoa. Nếu Tỳ kheo ni bảo Thức xoa ma na xoa xát thân thể, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 154 giới sa di ni xoa. Nếu Tỳ kheo ni bảo sa di ni xoa xát thân thể thì phạm Ba dật đề.
Thứ 155 giới bảo phụ nữ xoa. Nếu Tỳ kheo ni bảo vợ hay con gái của cư sĩ xoa xát thân thể, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 156 giới dùng quần lót dày (74). Nếu Tỳ kheo ni mặc quần lót độn dày thì phạm Ba dật đề.
Thứ 157 giới sắm đồ trang điểm. Nếu Tỳ kheo ni cất chứa đồ trang điểm thân thể của phụ nữ, thì, trừ lý do trường hợp khác, phạm Ba dật đề.
Thứ 158 giới mang dép cầm dù. Nếu Tỳ kheo ni đi mà mang dày da và cầm dù, thì, trừ lý do trường hợp khác, phạm Ba dật đề.
Thứ 159 giới không bịnh đi xe. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh mà đi xe, thì, trừ lý do trường hợp khác, phạm Ba dật đề.
Thứ 160 giới không mặc tăng kỳ (75). Nếu Tỳ kheo ni không mặc tăng kỳ chi mà đi vào làng xóm, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 161 giới tối đến nhà người. Nếu Tỳ kheo ni sắp tối đến nhà cư sĩ mà trước đó không được mời gọi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 162 giới tối mở cửa chùa. Nếu Tỳ kheo ni sắp tối mở cửa chùa đi ra mà không dặn Tỳ kheo ni khác, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 163 giới trời lặn mở cửa. Nếu Tỳ kheo ni mặt trời lặn rồi, mở cửa chùa đi ra mà không dặn lại ai cả, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 164 giới không có an cư. Nếu Tỳ kheo ni không tiền an cư, không hậu an cư, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 165 giới truyền giới thường xuất. Nếu Tỳ kheo ni biết nữ nhân thường xuất đại tiểu mũi giãi, mà vẫn truyền thọ cho cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 166 giới truyền giới hai hình. Nếu Tỳ kheo ni biết là người hai hình mà vẫn cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 167 giới truyền giới hợp một. Nếu Tỳ kheo ni biết là người 2 đường hợp một mà vẫn cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 168 giới truyền giới nợ bịnh. Nếu Tỳ kheo ni biết là người nợ nần, là người bịnh hoạn, mà vẫn cho lãnh thọ cụ túc giới, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 169 giới thuật số (76) để sống. Nếu Tỳ kheo ni học tập thuật số thế tục để tự mưu sinh, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 170 giới chỉ dạy thuật số. Nếu Tỳ kheo ni đem thuật số thế tục chỉ dạy cho cư sĩ, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 171 giới bị đuổi không đi. Nếu Tỳ kheo ni bị trục xuất mà không ra đi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 172 giới không cầu mà hỏi. Nếu Tỳ kheo ni muốn hỏi nghĩa lý Phật pháp nơi vị Tỳ kheo, trước hết không cầu xin cho phép mà cứ hỏi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 173 giới chọc tức quấy rối. Nếu Tỳ kheo ni biết người ở trước mình đến sau, biết người đến sau mình ở trước, muốn quấy rầy người ấy nên ở trước mặt họ mà kinh hành, mà đứng, ngồi, nằm, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 174 giới xây tháp chùa tăng. Nếu Tỳ kheo ni biết là chùa có Tỳ kheo mà xây tháp cho Tỳ kheo ni ở đó, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 175 giới khinh tân Tỳ kheo. Nếu Tỳ kheo ni thấy vị Tỳ kheo mới thọ cụ túc giới, lẽ đáng đứng dậy, đón rước, cung kính, lễ bái, hỏi han, mời ngồi; không làm như vậy thì phạm Ba dật đề.
Thứ 176 giới đi mà làm dáng. Nếu Tỳ kheo ni vì làm dáng cho đẹp nên lắc mình rảo bước (77) mà đi, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 177 giới dùng đồ trang sức. Nếu Tỳ kheo ni dùng (78) đồ trang sức của phụ nữ, dùng hương liệu xoa mình, thì phạm Ba dật đề.
Thứ 178 giới nhờ ngoại đạo nữ. Nếu Tỳ kheo ni nhờ nữ nhân ngoại đạo xoa xát hương liệu vào mình, thì phạm Ba dật đề.

Bạch chư đại tỷ, tôi đã nói 178 giới Ba dật đề. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 178 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 178 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

5/ Tám Giới Hối Quá
Bạch chư đại tỷ, 8 giới Ba la đề đề xá ni (79) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.
Thứ 1 giới không bịnh kiếm tô (80). Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm sữa tô mà ăn, thì phạm vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 2 giới không bịnh kiếm dầu. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm dầu mà ăn, thì phạm vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 3 giới không bịnh kiếm mật. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm mật mà ăn, thì phạm vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 4 giới không bịnh kiếm đường. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm đường phèn mà ăn, thì phạm vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 5 giới không bịnh kiếm sữa. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm sữa mà ăn, thì phạm vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến trước Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 6 giới không bịnh kiếm lạc. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm sữa lạc mà ăn, thì phạm vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến trước Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 7 giới không bịnh kiếm cá (81). Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm cá mà ăn, thì phạm vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.
Thứ 8 giới không bịnh kiếm thịt. Nếu Tỳ kheo ni không bịnh, kiếm thịt mà ăn, thì phạm vào cái pháp phải sám hối, đáng khiển trách. Phải đến Tỳ kheo ni khác mà bạch rằng, thưa đại tỷ, tôi phạm vào sự đáng khiển trách, vào việc không đáng làm, nay xin hướng về đại tỷ mà sám hối. Đó gọi là sự hối lỗi.

Bạch chư đại tỷ, tôi đã nói 8 giới Ba la đề đề xá ni. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 8 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 8 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

6/ Một Trăm Giới Học
Bạch chư đại tỷ, 100 giới phải học (82) sau đây, cứ mỗi nửa tháng phải tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.

Thứ 1. Nên mặc nội y cho tề chỉnh, phải học.
Thứ 2. Nên mặc 5 y cho tề chỉnh, phải học.
Thứ 3. Không được vắt trái y đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 4. Không được vắt trái y ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 5. Không được quấn y nơi cổ vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 6. Không được quấn y nơi cổ ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 7. Không được trùm đầu vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 8. Không được trùm đầu ngồi nhà cư sĩ, phải học (83).
Thứ 9. Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 10. Không được vừa đi vừa nhảy ngồi nhà cư sĩ, phải học.

Thứ 11. Không được ngồi xoạc đùi (84) trong nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 12. Không được chống nạnh đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 13. Không được chống nạnh ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 14. Không được lắc mình đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 15. Không được lắc mình ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 16. Không được vung tay đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 17. Không được vung tay đi vào ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 18. Khéo che mình kín đáo vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 19. Khéo che mình kín đáo ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 20. Không được nhìn bên này liếc bên kia đi vào nhà cư sĩ, phải học.

Thứ 21. Không được nhìn bên này liếc bên kia ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 22. Yên lặng vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 23. Yên lặng ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 24. Không được giỡn cười đi vào nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 25. Không được giỡn cười ngồi nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 26. Chú ý khi ăn (85), phải học.
Thứ 27. Lấy cơm chỉ ngang miệng bát mà ăn, phải học.
Thứ 28. Cả đồ ăn (86) nữa cũng chỉ lấy ngang miệng bát mà ăn, phải học.
Thứ 29. Đồ ăn và cơm phải lấy tương đương với nhau, phải học.
Thứ 30. Tuần tự mà ăn (87), phải học.

Thứ 31. Không được moi xốc giữa bát mà ăn, phải học.
Thứ 32. Không bịnh thì không được tự hỏi cơm và đồ ăn cho mình, phải học.
Thứ 33. Không được lấy cơm đậy đồ ăn lại để mong có đồ ăn nữa, phải học.
Thứ 34. Không được liếc xem trong bát Tỳ kheo ni ngồi bên cạnh, phải học.
Thứ 35. Phải để ý nơi bát mà ăn, phải học.
Thứ 36. Không được dồn cơm lớn miếng mà ăn, phải học.
Thứ 37. Không được hả lớn miệng để chờ cơm mà ăn, phải học.
Thứ 38. Không được ngậm cơm mà nói chuyện, phải học.
Thứ 39. Không được nắm cơm ngoài xa ném vào miệng, phải học.
Thứ 40. Không được ăn mà còn sót lại (88), phải học.

Thứ 41. Không được bung má mà ăn, phải học.
Thứ 42. Không được nhai (88b) ra tiếng mà ăn, phải học.
Thứ 43. Không được hớp cơm mà ăn, phải học.
Thứ 44. Không được le lưỡi liếm mà ăn, phải học.
Thứ 45. Không được rảy tay mà ăn, phải học.
Thứ 46. Không được lượm cơm rơi mà ăn, phải học.
Thứ 47. Không được tay dơ cầm đồ đựng nước uống, phải học.
Thứ 48. Không được đổ nước rửa bát trong nhà cư sĩ, phải học.
Thứ 49. Không được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ trên cỏ tươi, trừ lúc có bịnh, phải học.
Thứ 50. Không được đại tiện tiểu tiện, hỷ nhổ vào nước sạch, trừ lúc có bịnh, phải học.

Thứ 51. Không được đứng mà đại tiện tiểu tiện, trừ lúc có bịnh, phải học.
Thứ 52. Không được thuyết pháp cho người vắt áo lên vai, không cung kính, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 53. Không được thuyết pháp cho người quấn áo nơi cổ, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 54. Không được thuyết pháp cho người che đầu, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 55. Không được thuyết pháp cho người trùm đầu, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 56. Không được thuyết pháp cho người chống nạnh, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 57. Không được thuyết pháp cho người mang dép da, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 58. Không được thuyết pháp cho người mang guốc gỗ, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 59. Không được thuyết pháp cho người cưỡi ngựa, trừ lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 60. Không được ngủ nghỉ trong tháp Phật, trừ ra để coi giữ, phải học.

Thứ 61. Không được cất giấu của cải trong tháp Phật, trừ ra để cho chắc chắn, phải học.
Thứ 62. Không được mang dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 63. Không được cầm dép da vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 64. Không được mang dép da đi nhiễu quanh tháp Phật, phải học.
Thứ 65. Không được mang dày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 66. Không được cầm dày ủng vào trong tháp Phật, phải học.
Thứ 67. Không được ngồi ăn nơi tháp Phật mà xả rác và thức ăn làm dơ đất, phải học.
Thứ 68. Không được khiêng thây chết đi qua tháp Phật, phải học.
Thứ 69. Không được chôn thây chết nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 70. Không được đốt thây chết nơi tháp Phật, phải học.

Thứ 71. Không được hướng về tháp Phật mà đốt thây chết, phải học.
Thứ 72. Không được đốt thây chết bốn phía tháp Phật để hơi hôi bay vào, phải học.
Thứ 73. Không được mang áo và giường người chết đi qua tháp Phật, trừ ra đã giặt, nhuộm và xông hương, phải học.
Thứ 74. Không được đại tiện tiểu tiện nơi tháp Phật, phải học.
Thứ 75. Không được hướng về tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện, phải học.
Thứ 76. Không được đại tiện tiểu tiện bốn phía tháp Phật để hơi thối bay vào, phải học.
Thứ 77. Không được mang ảnh tượng của Phật đến chỗ đại tiện tiểu tiện, phải học.
Thứ 78. Không được ở nơi tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 79. Không được hướng về tháp Phật mà xỉa răng, phải học.
Thứ 80. Không được bốn phía tháp Phật mà xỉa răng, phải học.

Thứ 81. Không được nơi tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 82. Không được hướng về tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 83. Không được bốn phía tháp Phật mà hỉ mũi khạc nhổ, phải học.
Thứ 84. Không được ngồi duỗi chân trước tháp Phật, phải học.
Thứ 85. Không được để tượng Phật ở phòng dưới còn mình ở phòng trên, phải học.
Thứ 86. Người ngồi mà mình đứng thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 87. Người nằm mà mình ngồi thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 88. Người ngồi ghế mà mình ngồi chỗ không phải ghế thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 89. Người ngồi chỗ cao mà mình ngồi chỗ thấp thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 90. Người đi trước mà mình đi sau thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.

Thứ 91. Người ở chỗ kinh hành cao mà mình ở chỗ kinh hành thấp thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 92. Người đi giữa đường mà mình đi lề đường thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 93. Không được dắt tay nhau mà đi đường, phải học.
Thứ 94. Không được trèo cây cao quá đầu người, trừ trường hợp có lý do, phải học.
Thứ 95. Không được đựng bát vào đãy, xâu vào đầu tích trượng rồi vác trên vai mà đi, phải học.
Thứ 96. Người cầm gậy, không cung kính, thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 97. Người cầm kiếm thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 98. Người cầm mâu thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 99. Người cầm đao thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.
Thứ 100. Người che dù thì không được thuyết pháp cho họ, trừ ra lúc họ có bịnh, phải học.

Bạch chư đại tỷ, tôi đã nói các giới phải học. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong các giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong các giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

7/ Bảy Pháp Diệt tránh
Bạch chư đại tỷ, 7 pháp Diệt tránh (89) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh. Nếu các Tỳ kheo ni có sự tranh cãi nổi lên thì phải diệt trừ liền.

Thứ 1. Đáng cho hiện tiền tỳ ni thì nên cho hiên tiền tỳ ni.
Thứ 2. Đáng cho ức niệm tỳ ni thì nên cho ức niệm tỳ ni.
Thứ 3. Đáng cho bất si tỳ ni thì nên cho bất si tỳ ni.
Thứ 4. Đáng cho tự nói xử trị thì nên cho tự nói xử trị.
Thứ 5. Đáng cho xét tìm tội tướng thì nên cho xét tìm tội tướng.
Thứ 6. Đáng cho nhiều người xét tìm thì nên cho nhiều người xét tìm.
Thứ 7. Đáng cho như cỏ che đất thì nên cho như cỏ che đất.

Bạch chư đại tỷ, tôi đã nói 7 pháp Diệt tránh. Nay xin hỏi chư đại tỷ, trong 7 pháp ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại tỷ, trong 7 pháp ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

8/ Lời Kết Thúc
Bạch chư đại tỷ, tôi đã nói lời nói đầu của Giới kinh, đã nói 8 giới Ba la di, đã nói 17 giới Tăng già bà thi sa, đã nói 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề, đã nói 178 giới Ba dật đề, đã nói 8 giới Ba la đề đề xá ni, đã nói 100 giới chúng học, đã nói 7 pháp Diệt tránh. Tất cả giới điều như vậy là Giới kinh Phật dạy, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh. Còn những Phật pháp khác nữa thì, với những Phật pháp ấy, hãy chung cùng hòa hợp mà học.

10/ Phần Cuối Tỳ kheo Ni Giới
Đức tính nhẫn nhục
là đạo bậc nhất,
Phật nói vô vi
là pháp tối thượng;
là người xuất gia
mà bức não người,
thì không được gọi
là bậc Sa môn.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Tỳ Bà Thi, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Ví dụ như người
có đôi mắt sáng,
mới có khả năng
tránh đường hiểm nghèo;
thế giới mà có
những người thông minh,
thì có khả năng
xa rời điều ác.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Thi Khí, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Không hề phỉ báng
cũng không ganh ghét,
và hãy kính cẩn
tuân hành giới pháp,
bằng cách ăn uống
cũng biết vừa đủ,
thường thường thích thú
ở chỗ thanh vắng,
tâm trí định tĩnh
ưa thích tinh tiến,
đó là những điều
chư Phật huấn dụ.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Tỳ Diệp La, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Ví như loài ong
hút lấy mật hoa
thì không thương tổn
sắc hương của hoa
mà chỉ hút lấy
cái vị mật ngọt,
Tỳ kheo cũng vậy
đi vào làng xóm
thì không can dự
công việc người khác,
không nhìn đáng làm
hay không đáng làm,
mà chỉ tự nhìn
bản thân mà đi
coi có ngay thẳng
hay không ngay thẳng.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Câu Lưu Tôn, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Tâm trí không nên
có sự phóng dật,
pháp của bậc thánh
phải siêng học tập;
được như thế ấy
không còn lo buồn,
tâm trí ổn định
nhập vào niết bàn.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Câu Na Hàm Mâu Ni, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Tất cả điều ác
đừng có làm đến,
tất cả điều thiện
kính cẩn mà làm,
tự mình làm sạch
tâm trí của mình,
những điều như vậy
là chư Phật dạy.

Bài tụng này là Giới kinh được thuyết ra bởi đức Ca Diếp, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri.

Khéo léo mà giữ
miệng lưỡi lời tiếng,
tự mình làm sạch
tâm trí của mình,
và thân thể nữa
cũng đừng làm ác,
đó là đường sạch
của cả ba nghiệp;
khả năng đạt được
đường sạch như vậy
chính là đường đi
của bậc đại tiên.

Bài tụng này là Giới kinh của đức Thích Ca Mâu Ni, đấng Như Lai, đấng vô trước, đấng chánh biến tri, thuyết ra cho chư tăng không có mọi sự tội lỗi trong 12 năm. Từ đó về sau chỉ là phân tích phong phú Giới kinh này.
Chư vị Tỳ kheo ni, những ai ưa thích giáo pháp và ưa thích Sa môn, những ai có sự hổ thẹn lấy mình và có sự hổ thẹn với người, ưa thích học giới pháp, thì phải học các Giới kinh này.

Những người minh triết
giữ được giới pháp,
thì thực hiện được
ba thứ vui thích,
một là danh thơm
hai là lợi quí
ba là chết rồi
sinh lên chư thiên.
Cần phải cứu xét
cái điều này đây,
mà người có trí
nên giữ giới pháp.
Giới mà trong sạch
lại có tuệ giác,
thì thực hiện được
cái đạo bậc nhất.
Tất cả Phật đà
trong thì quá khứ
cùng chư Thế Tôn
hiện tại vị lai
chiến thắng lo buồn,
là do cùng nhau
tôn kính giới pháp,
và chính điều này
là cái nguyên tắc
của chư Phật đà.
Nếu có người nào
biết tự vì mình
mà tìm đường đi
của chư Phật đà,
thì hãy tôn trọng
đối với chánh pháp,
đó là huấn thị.
của chư Như Lai.
Bảy đức Phật đà
là đấng Thế Tôn,
đã trừ diệt hết
mọi thứ kiết sử,
và đã thuyết ra
bảy bản Giới kinh,
làm cho giải thoát
mọi thứ ràng buộc,
làm cho nhập vào
niết bàn tối thượng,
ở đó vĩnh viễn
diệt sạch hý luận.
Tôn trọng tuân hành
Giới kinh Phật nói,
cùng với giới pháp
hiền thánh ca tụng,
con em của Phật
mà làm như vậy
thì sẽ nhập vào
niết bàn tịch diệt.
Khi đức Thế Tôn
sắp nhập niết bàn,
Ngài đã nổi dậy
lòng thường to lớn,
chiêu tập đầy đủ
chư vị Tỳ kheo,
và dạy như vầy
đối với giới pháp:
Chư vị đừng nói
Như Lai nhập diệt
thì không ai giữ
cho người thanh tịnh;
Như Lai đã khéo
nói ra Giới kinh,
Như Lai lại khéo
nói ra giới pháp,
dẫu rằng Như Lai
nhập vào niết bàn,
chư vị hãy coi
Giới ấy như Phật.
Giới kinh tồn tại
lâu dài trong đời,
thì Pháp của Phật
sẽ được hưng thịnh,
và Pháp của Phật
mà hưng thịnh lên,
thì làm cho người
được nhập niết bàn.
Nếu không tuân giữ
giới pháp như vầy,
và không đúng phép
cử hành Bố tát,
thì như mặt trời
đến lúc lặn mất,
cả thế giới này
tối tăm mịt mù.
Hãy cố mà giữ
giới pháp như vầy,
như bò đuôi dài
tiếc giữ đuôi nó,
bằng cách hòa hợp
tập hợp thuyết giới,
đúng như Phật đà
đã từng huấn dụ.
Tôi đã thành kính
tụng lại Giới kinh,
chư tăng cũng đã
Bố tát hoàn tất.
Tôi tụng giới kinh
được bao công đức,
nguyện hiến chúng sinh
cùng thành Phật đạo.

Ghi Chú
Ghi Chú (1)
Giới kinh ở đây là Tỳ kheo giới bản và Tỳ kheo ni giới bản. Giới kinh ở đây còn có 2 trường hợp nữa. Có trường hợp chỉ cho Tứ phần luật. Có trường hợp chỉ cho mỗi bài tụng của 7 đức Phật nói Giới kinh.
Ghi Chú (2)
Chính văn là thánh pháp tài (tài sản chánh pháp của các vị thánh), thường nói tắt là thánh tài. Thánh tài có 7 thứ, là tín, giới, tàm, quí, văn, xả, tuệ. Có 7 thứ này thì gọi là thánh nhân (kinh Niết bàn).
Ghi Chú (3)
Tỳ kheo ni giới có 7 loại: 1. khiắ, có 8; 2. Tăng tàn, có 17; 3. Xả đọa, có 30; 4. đọa, có 178; 5. hối quá, có 8; 6. học, có 100; 7. Diệt tránh, có 7. Chính văn này chỉ đưa ra 3 loại, là nói tắt.
Ghi Chú (4)
Dịch đúng chính văn là nói việc ấy cho tôi. Chính văn này không chỉnh. Ở đây là các đức Phật đều nói Giới kinh.
Ghi Chú (5)
Giới luật của dị giáo, ngoại đạo.
Ghi Chú (6)
Đại khái gửi lời thưa rằng mình cũng muốn Bố tát và trong nửa tháng vừa qua mình không vi phạm giới nào.
Ghi Chú (7)
Chính văn là thời đáo, có nghĩa đến lúc, đúng lúc, thời gian thích hợp.
Ghi Chú (8)
Chỉ cho 37 giác phần, đặc biệt chỉ cho 8 chánh đạo trong đó.
Ghi Chú (9)
Chính văn là trì, có nghĩa nắm giữ trong trí, tức là nhớ, ghi nhận.
Ghi Chú (10)
Dịch nghĩa là khí (bị bỏ ra ngoài tăng chúng), nhưng chính nghĩa là tha thắng (bị chiến thắng).
Ghi Chú (11)
Sự dâm dục, Luật gọi là phi phạn hạnh, là bất tịnh hạnh.
Ghi Chú (12)
Không được cùng tăng chúng Yết ma và thuyết giới.
Ghi Chú (13)
Là hẹn chỗ để hành dâm. Chính do sự này mà phạm trọng tội.
Ghi Chú (14)
1. Chính văn là phạm tùy cử cố. Dịch như đã dịch mà không tự tín chính xác. 2. Từ giới thứ 5 xuống đến giới này có sự bất thường. Là cuối mỗi giới có thêm 1 câu. Những câu này quả là không cần thiết, nên bản Nguyên chiếu lược bỏ.
Ghi Chú (15)
Dịch nghĩa là Tăng tàn, là phạm những tội này còn có thể cứu vãn được nếu biết sám hối trước 40 vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, không thì cũng như phạm tội Ba la di.
Ghi Chú (16)
Loại Tăng tàn của Tỳ kheo ni có sự bất thường. Là trong 17 giới, 9 giới trước ghi thêm sơ pháp ưng xả, 8 giới sau ghi thêm tam pháp ưng xả. Trùng trị cắt nghĩa sơ pháp là mới làm là phạm (nói cách khác, mới phạm là thành tội), ưng xả là phải bỏ mà đừng phạm; tam pháp là can gián đến lần thứ 3 mà không bỏ mới là phạm (nói cách khác, sau 3 lần can gián mới thành tội), ưng xả cũng là phải bỏ mà đừng phạm. Sơ pháp với tam pháp, cắt nghĩa như vậy là chính xác, còn ưng xả thì không rõ cắt nghĩa như vậy có chính xác không. Vì 2 câu này chỉ có Trùng trị cắt nghĩa, nên tôi dịch theo sách ấy.
Ghi Chú (17)
Chính văn là chủng tánh (dòng họ, giai cấp, thành phần xã hội).
Ghi Chú (18)
Nhiễm thực là thức ăn xuất từ nhiễm tâm (tâm ô nhiễm: tâm dâm dục).
Ghi Chú (19)
Đủ thì phải nói phá hoại tăng hòa hợp mà còn chống lại sự can gián. Tăng hòa hợp là 4 vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni sắp lên, cùng Yết ma và cùng tụng giới.
Ghi Chú (20)
Là cùng học đức Phật bổn sư: đức Thích Ca.
Ghi Chú (21)
Đủ thì phải nói hỗ trợ phá tăng hòa hợp mà còn chống lại sự can gián.
Ghi Chú (22)
Đủ thì phải nói làm hoen ố tín đồ mà còn chống lại sự can gián.
Ghi Chú (23)
Làm hoen ố tín đồ, chính văn là ô tha gia (làm bẩn người khác). Ô tha gia có 4 hình thức mà đứng đầu là đem vật của người này cho mà cho lại người khác, làm cho tâm lý người nào cũng không còn bình thường. Làm những việc xấu là những việc xấu dẫn ra từ sự ô tha gia.
Ghi Chú (24)
Hoan hỷ, chính văn là ma na đỏa, dịch nghĩa là ý hỷ. Ý hỷ là ở sát cạnh chư ni, chân thành ân hận, làm cho chư ni hoan hỷ mà mình cũng hoan hỷ.
Ghi Chú (25)
Chính văn chỉ có Tỳ kheo ni. Như vậy là không chỉnh, nên phải bổ túc Tỳ kheo.
Ghi Chú (26)
Trường hợp, chính văn là thời. Tra 4 bộ Luật khác mới biết chữ ấy, ở đây và nhiều chỗ sau đây, có nghĩa là trường hợp.
Ghi Chú (27)
Dịch nghĩa là Xả đọa, là xả thí những vật dụng dư thừa rồi sám hối, nếu không thì sẽ bị đọa lạc ác đạo.
Ghi Chú (28)
Y công đức (ca hy na y) là y được xét thưởng sau 3 tháng an cư thanh tịnh. Ai được xét thưởng thì có 5 tháng (16/7 đến 15/12) được hưởng 5 sự mà Luật đã định.
Ghi Chú (29)
Trường y (y dài) là dài bằng 8 ngón tay và rộng bằng 4 ngón tay của Phật. Vạn 70/346 nói trường y là y dư thừa, hễ vải dài 1 thước 6, rộng 8 tấc, thì đã gọi là trường y.
Ghi Chú (30)
Tịnh thí nghĩa là cho một cách trong sạch. Tịnh thí ở đây là Tỳ kheo ni có thừa những vật dụng (như y, bát, v/v) thì phải thí xả. Có 2 cách tịnh thí. Một là chân thật tịnh thí, là đem vật dụng thừa ra giữa chư tăng mà thí xả cho người khác. Hai là triển chuyển tịnh thí, là thí xả giữa chư tăng mà nói tên người mình muốn cho. Nếu người ấy vắng mặt thì chư tăng nói: Đại tỷ đã cho người ấy rồi thì đó là vật của người ấy; đại tỷ nên cất giữ giúp người ấy, và nếu cần thì mượn mà dùng.
Ghi Chú (31)
5 y là An đà hội, Uất đa la tăng, Tăng già lê, tăng kỳ chi, phú kiên; 5 y là của Tỳ kheo ni dùng. Cũng nên biết chữ Y trong Luật có khi chỉ cho y, có khi chỉ cho áo, quần, khăn v/v, có khi chỉ cho vải.
Ghi Chú (32)
Yết ma, dịch nghĩa là tác pháp biện sự. Việc gì của tăng cũng phải do cả tăng quyết định mới thành tựu, đó gọi là Yết ma. Yết ma có đan bạch, bạch nhị và bạch tứ. Đan bạch là gặp những việc quá thường xuyên thì chỉ cần 1 lần tuyên cáo (tác bạch, bạch) mà thôi, không cần hỏi lại. Bạch nhị là gặp những việc hơi quan trọng, sợ xảy bất đồng ý về sau, nên phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 1 lần. Bạch tứ là gặp những việc quan trọng thì phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 3 lần. Tăng Yết ma có 4 loại, đó là 4 vị cho đan bạch, 5 vị cho bạch nhị, 10 vị cho bạch tứ, 20 vị hay 40 vị cho sự xử tội Tăng tàn. Số lượng này nhiều hơn thì được, thiếu đi thì không được.
Ghi Chú (33)
Đáng lẽ phải nói 5 y có cái cũ và hỏng. Nguyên do của giới này là vì có Tỳ kheo ni y Tăng già lê bị cũ và hỏng.
Ghi Chú (34)
Lời xin tùy ý là thí chủ có lời xin nói trước rằng người nhận lãnh muốn sao cũng được.
Ghi Chú (35)
Chính văn là khẩu khả thọ, dịch nhận lấy bằng cách miệng nói được, là theo Danh nghĩa (Vạn 70/347).
Ghi Chú (36)
Đáng lẽ giới này nên nói đổi chác (mậu) thì đúng hơn, vì bán mua thì là giới thứ 11.
Ghi Chú (37)
Chính văn là muội.
Ghi Chú (38)
Dịch sát là 10 ngày chưa hết của 3 tháng kiết hạ an cư; 10 ngày ấy là 6/7 đến 15/7.
Ghi Chú (39)
Thì hạn của y ấy, y ấy là y cúng vội vàng nói trên, thì hạn của y ấy là 1 tháng (16/7 đến 15/8) nếu không thọ công đức y, hoặc 5 tháng (16/7 đến 15/12) nếu có thọ công đức y.
Ghi Chú (40)
Giới này đến giới 23 rõ ràng có thể làm 1 giới thôi. Phải dịch rất sát tên giới, là để thấy khác nhau.
Ghi Chú (41)
Trường bát, có ý kiến nói là bát dư thừa.
Ghi Chú (42)
Bịnh y ở đây là vải dùng lúc hành kinh.
Ghi Chú (43)
Thời y và phi thời y. Y đây cũng có thể là vải. Coi giới thứ 3 thì biết. Thời y (y đúng thời) là y có trong thời gian 1 tháng (16/7 15/8) hoặc 5 tháng (16/7 15/12). Phi thời y (y trái thời) là y có trong thời gian không phải thời gian của thời y.
Ghi Chú (44)
Tấm ở đây nhỏ thì rộng 2 khuỷu tay, lớn thì bằng y ca sa (Vạn 70/348). Áo dày là áo chống lạnh.
Ghi Chú (45)
Áo mỏng cũng nên dịch áo nhẹ, là áo chống nóng.
Ghi Chú (46)
Ba dật đề dịch nghĩa là đọa, là phạm những giới này nếu không sám hối giữa chư tăng thì sẽ bị đọa lạc.
Ghi Chú (47)
Coi lại ghi chú 17.
Ghi Chú (48)
5, 6 lời, cũng có thể dịch là pháp số 5 (như nói 5 uẩn vô ngã) và pháp số 6 (như nói 6 thức vô thường).
Ghi Chú (49)
Cây cối là chỗ ở của quỉ thần và sinh vật, nên những chữ chặt phá cây cối và sinh vật là bổ túc.
Ghi Chú (50)
Giường giây là lòng giường đan sợi mây hay bất cứ sợi gì. Có chỗ giường giây là võng.
Ghi Chú (51)
Không phải giờ ăn (phi thời) là kể từ xế bóng ngày trước cho đến ngày sau trời chưa sáng.
Ghi Chú (52)
Dịch rõ là thức ăn mà mình không hay chưa nhận lời mời, hoặc thuốc cũng không hay chưa nhận lời mời, mà đã bỏ vào miệng.
Ghi Chú (53)
Bữa ăn trước là trời sáng cho đến giờ ngọ, bữa ăn sau là giờ ngọ.
Ghi Chú (54)
Nhà ăn (thực gia) và vật báu ở đây có cái nghĩa riêng ở đây, không phải cái nghĩa thông thường. Nghĩa thông thường thì nhà ăn là nhà mời ăn, vật báu là vàng ngọc (hoặc nói bóng người đẹp). Nhưng nghĩa ở đây thì nhà là nhà có chồng vợ, ăn là chồng vợ ấy hành dâm hưởng lạc với nhau (và vật báu có thể chỉ có nghĩa là trong nhà ấy có chỗ cho chồng vợ hành dâm). Trong nhà ăn có vật báu như vậy mà họ mời ăn rồi không đi ngay thì rất chướng ngại cho họ, nhất là cho người chồng.
Ghi Chú (55)
Dịch rõ là khơi lại 4 sự tranh cãi. Sự tranh cãi có 4, đó là 1, ngôn tranh, là tranh cãi vì bàn luận giới pháp; 2, mích tranh, là tranh cãi vì xoi bói tội lỗi; 3, phạm tranh, là tranh cãi về tội lỗi đã phạm; 4, sự tranh, là tranh cãi về công việc Yết ma. Cả 4 sự tranh cãi đều phải diệt bằng 7 cách Diệt tránh. Khi Yết ma Diệt tránh rồi mà ai còn khêu gợi lại thì phạm Ba dật đề.
Ghi Chú (56)
Đâu la là bông của mọi thứ cây cỏ, trong đó có bông gòn, bông vải, và kén tằm hoang.
Ghi Chú (57)
Đúng chính văn thì chỉ nói tỏi. Nhưng thật ra là nói 5 vị tân. Nên phải dịch các thứ tỏi.
Ghi Chú (58)
Tác tịnh ở đây là làm vệ sinh bộ phận sinh dục. Đặt giới hạn như vậy là phòng tự kích thích, phòng thói thủ dâm.
Ghi Chú (59)
Xin lúa, mè, gạo, đậu, v/v. Ấy là nói sự xin xỏ không chán, không biết xấu hổ.
Ghi Chú (60)
Và các trò chơi khác. Kỹ nhạc là diễn tấu nhạc khí, là hòa nhạc; có chỗ kỹ nhạc là diễn kịch hòa nhạc.
Ghi Chú (60b)
Chính văn là bất sinh Phật pháp trung. Không sinh trong Phật pháp là không sinh vào trong gia đình tin Phật, không sống trong Phật pháp bằng cách xuất gia hay tại gia.
Ghi Chú (61)
Như trời lạnh mà chỉ có 1 chăn.
Ghi Chú (62)
Như vì việc của Tam bảo, vì việc của Tỳ kheo ni bịnh, thì kiết hạ an cư cũng được tác pháp xuất giới 7 ngày.
Ghi Chú (63)
Vì tín đồ vốn chỉ xin cúng dường mùa an cư mà thôi.
Ghi Chú (64)
6 nạn là không có kéo, kim, chỉ, vải không đủ, chủ y phá giới, tính mạng bị nạn.
Ghi Chú (65)
5 ngày coi sóc 1 lần.
Ghi Chú (66)
Vì đui, điếc, còng, què, v/v.
Ghi Chú (67)
Là 10 năm sau khi xuất gia và 2 năm Thức xoa. Không phải 12 năm là năm sinh. (Trùng trị, Vạn 63/300A).
Ghi Chú (68)
Dâm nữ, tư thông, v/v.
Ghi Chú (69)
Là giáo pháp và cơm áo.
Ghi Chú (70)
Chính văn nói 12 năm, nhưng chính trong Tứ phần luật thì nói 1 năm, hay nói 12 tháng. Như vậy có thể suy ra mỗi năm độ 1 người là nhiều rồi.
Ghi Chú (71)
Dịch đủ thì còn cá và thịt. Nhưng đó là tiểu thừa tùy thí tùy thực (cho gì ăn nấy), nên ở đây phải lược.
Ghi Chú (72)
Chính văn là gia. Theo cước chú của Vạn 64/102 thì là nhà của thí chủ. Nhưng cước chú của Tỳ kheo ni giới kinh thì gia ở đây đọc là cô (thái cô), nghĩa là bà thầy. Xét lý do của giới này (Tứ phần, Chính 22/768) thì nghĩa thầy đúng hơn. Lý do của giới này là Tỳ kheo ni An ổn có 1 đệ tử là Tỳ kheo ni Đề xá. Hai thầy trò đến nhà thí chủ cũ. Thí chủ thấy An ổn y phục tề chỉnh, oai nghi hoàn hảo, nên hoan hỷ cúng dường. Về chùa, An ổn nói với Đề xá, rằng thí chủ này tín tâm chân thành, cúng dường hảo ý. Đề xá có ý ganh ghét, nói thí chủ tín tâm chân thành, cúng dường hảo ý, là cúng dường cho thầy!
Ghi Chú (73)
Vạn 64/102 nói mè đây là chi ma.
Ghi Chú (74)
Chính văn là chủ khỏa y, tức quần cụt, quần đùi, quần lót, mà may lụa, độn dày, đính đồ đẹp. Mặc để làm đẹp hạ thể. Bị cấm dùng. Nếu có bịnh thì mặc bịnh y rồi mặc quần.
Ghi Chú (75)
Nói đủ là tăng kỳ chi, là áo lót che nách, ngực và eo.
Ghi Chú (76)
Thuật số ở đây, và ở dưới đây, chính văn là kyՠthuật. Chữ này không chỉnh, vì ở đây là nói chú thuật, lý số, và đó là tà mạng nên Luật cấm.
Ghi Chú (77)
Tra cứu Tứ phần (Chính 22/777) và Trùng trị (Vạn 63/303), thì lắc mình rảo bước (dao thân xu hành) có thể hiểu đi mà nhún nhảy. Coi phần khai của giới này thì đủ để hình dung. Phần ấy nói hoặc vốn có bịnh như vậy, v/v, hoặc muốn làm cho y áo tề chỉnh, nên nhìn phải nhìn trái, ngoái mình mà nhìn, không phạm.
Ghi Chú (78)
Chính văn là tác, vừa có nghĩa sử dụng, vừa có nghĩa sắm sửa. Ở đây có cả 2 nghĩa, mà nghĩa sử dụng nhiều hơn, còn nghĩa sắm sửa thì là giới 157.
Ghi Chú (79)
Dịch nghĩa là hướng bỉ hối, là những giới điều mà phạm vào chỉ cần sám hối với 1 Tỳ kheo ni.
Ghi Chú (80)
Danh nghĩa (Vạn 70/273) nói từ bò mà ra là nhủ, từ nhủ mà ra là lạc, từ lạc mà ra là sanh tô, từ sanh tô mà ra là thục tô, từ thục tô mà ra là đề hồ. Đó là nói về sữa bò và 4 cách chế biến về sữa ấy. Bốn cách này khó dịch và biết cho rõ, vì xưa khác nay khác, xứ khác, tên khác. Nên ở đây tôi để nguyên chữ tô và chữ lạc, và gọi là sữa tô, sữa lạc.
Ghi Chú (81)
Coi lại ghi chú 71. Nhưng ở đây không thể lược bỏ.
Ghi Chú (82)
1. Như đã nói trong lời tựa, 100 giới này tôi không dịch tên. 2. 100 giới này hoàn toàn y như Tỳ kheo giới, chỉ có không hơn vài chỗ khác chữ mà cùng nghĩa.
Ghi Chú (83)
Xuống dòng như vậy là có ý sắp loại các giới điều này.
Ghi Chú (84)
Chính văn là tôn tọa. Tôn, các bản ghi chú đều nói là ngồi mà tiếng thông tục của ta gọi là ngồi chỏ hỏ. Nhưng từ điển nói là ngồi xoạc đùi. Tôi chọn nghĩa này.
Ghi Chú (85)
Để khỏi rơi đồ ăn xuống.
Ghi Chú (86)
Chính văn là canh, nhưng rõ ràng chữ ấy ở đây là đồ ăn, chứ không phải chỉ là canh như thường nói. Do vậy chữ canh ấy được dịch là đồ ăn.
Ghi Chú (87)
Chú thích: ăn không tuần tự là ngay trong bát mà đã lấy ăn lung tung.
Ghi Chú (88)
Dịch theo chú thích là một nửa vào miệng, một nửa còn lại nơi tay.
Ghi Chú (88b)
Dịch đủ là nhai cơm. Nhưng đủ mà thiếu. Bất cứ nhai gì cũng không được ra tiếng, không phải chỉ nhai cơm.
Ghi Chú (89)
Là 7 cách diệt trừ sự tranh cãi. Bảy cách này, nếu chư ni có sự tranh cãi (coi ghi chú 55) thì phải dập tắt bằng 7 cách ấy. Nói đại khái và giản dị, thì một thành phần chư ni có lỗi, nhất là lỗi gây ra tranh cãi, thì hãy diẹẤt sự tranh cãi ấy bằng cách cho hiện diện (1), cho nhớ lại (2), cho tỉnh trí (3), cho tự xử (4), cho tự xét (5), cho chung xét (6), cho qua loa (7). Nghĩa là bằng cách nào đó có lý có tình mà đem lại sự phụctkl thiện và hoan hỷ là tốt. Giới của 7 cách này là sau khi Diệt tránh bằng 7 cách rồi, ai còn khơi lại thì phạm tội và bị trị.
_______ 
* Ghi chú của người edit 
Bị thiếu hay bị đánh nhầm số chương ? Nội dung thấy không thiếu  tkl
 
5/ Tám Giới Hối Quá
6/ Một Trăm Giới Học
6/ Bảy Pháp Diệt tránh
9/ Lời Kết Thúc
10/ Phần Cuối Tỳ kheo Ni Giới
Tạm thời xin đổi lại như vầy: 
5/ Tám Giới Hối Quá
6/ Một Trăm Giới Học
7/ Bảy Pháp Diệt tránh
8/ Lời Kết Thúc
9/ Phần Cuối Tỳ kheo Ni Giới

VII)- Sa di Giới Và Sa di Ni Giới
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
Mục lục
1/ Lời Huấn Thị Sa Di & Sa Di Ni
2/ Phần Kính Phụng Di Giáo
3/ Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu
4/ Quy Sơn Cảnh Sách Văn
5/ Sa di Luật Nghi Yếu Lược
6/ Sa di Ni Luật Nghi Yếu Lược

1/ Lời Huấn Thị Sa di & Sa di Ni
Thiện nam và thiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì. Bằng cách hiến cúng Tam bảo, siêng trồng ruộng phước. Đối với Hòa thượng Xà lê thì nhất nhất theo luật, y như giáo huấn đúng với chánh pháp của các ngài, đối với Thượng tọa trung tọa hạ tọa thì lòng thường cung kính. Tinh tiến hành đạo, báo ơn mẹ cha. Áo cốt che thân, không cần hoa mĩ; ăn đủ để sống, không được đam mê. Hoa hương phấn sáp không cho dính mình, sắc đẹp tiếng tà toàn không nhìn nghe. Nói lời từ tốn, giữ thân nghiêm chính, đừng rao lỗi người; nếu ai tranh chấp, nói cho đôi bên hòa hợp. Trai gái phải khác biệt, cỏ cây cũng đừng tổn thương. Không phải người hiền thì không thân làm bạn, không phải bậc thánh thì không thờ làm thầy. Y và bát thường chung với mình. Phi thời không ăn, phi pháp không nói. Tinh cần suy nghĩ nghĩa lý, ôn cũ biết mới. Ngồi thì thiền tư, dậy thì đọc tụng. Đóng ba đường ác, mở cửa Niết bàn. Nương dựa vào pháp Tỳ kheo mà tăng trưởng những chánh nghiệp trên đây, làm cho tâm Bồ đề không thoái chuyển, trí Bát nhã trong sáng hoài. Quảng độ chúng sinh, cầu thành chánh giác. Dụng tâm như vậy mới thật là đệ tử của Phật.
Người làm việc trích và chỉnh thành lời huấn dụ này là chính ngài Bách trượng (Vạn 106/266). Lời nay có trong tất cả nghi thức truyền giới Sa di và Sa di ni.

Mười Điều Tâm Niệm

Thứ nhất, nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh khổ, vì không bịnh khổ thì dục vọng dễ sinh.
Thứ hai, ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nỗi dậy.
Thứ ba, cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
Thứ tư, xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
Thứ năm, việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường, kiêu ngạo.
Thứ sáu, giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
Thứ bảy, với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
Thứ tám, thi ân thì đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân mà ý có mưu đồ.
Thứ chín, thấy lợi thì đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.
Thứ mười, oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.

Bởi vậy, Phật dạy lấy bịnh khổ làm thuốc thần, lấy hoạn nạn làm giải thoát, lấy khúc mắc làm thú vị, lấy ma quân làm bạn đạo, lấy khó khăn làm thích thú, lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ, lấy người chống đối làm nơi giao du, coi thi ân như đôi dép bỏ, lấy sự xả lợi làm vinh hoa, lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh. Nên chấp nhận trở ngại thì lại thông suốt, mà cầu mong thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Thế Tôn thực hiện tuệ giác Bồ đề ngay trong mọi sự trở ngại. Ương Quật hành hung, Đề Bà quấy phá, mà Ngài giáo hóa cho thành đạo cả. Như vậy há không phải chính sự chống đối lại làm sự thuận lợi, và sự phá hoại lại làm sự tác thành, hay sao?
Ngày nay, những người học đạo, trước hết không dấn mình vào trong mọi sự trở ngại, nên khi trở ngại ập đến thì không thể ứng phó. Chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào?

Ghi Chú
Trước đây 10 điều tâm niệm tôi dịch từ sự trích lục của 1 bộ sách. Nay thì tìm ra và dịch theo nguyên văn, nằm trong Chính 47/373, tên sách là Bảo Vương Tam Muội Niệm Phật Trực Chỉ, của ngài Diệu Hiệp, 1 tác phẩm mà ngài Vân Thê muốn nhưng chưa thấy được (Chính 47/354). Mười điều tâm niệm được mở đầu bằng những lời sau đây.
Tâm tánh bình đẳng, bản thể nguyên vẹn. Do đó mà chúng sinh tuy bị ràng buộc trong nghiệp thức, nhưng không ai lại không có cái chí xuất trần. Thế nhưng muốn tham cứu đạo lý thì ma chướng đã hiện ra, một việc phiền lòng là vạn điều thiện mất cả, thành công thì nhỏ mà thất bại quá lớn, nên người đắc đạo quả thật quá ít. Huống chi vật dục đua nhau khuynh loát tâm trí, sống chết giành nhau đánh đổ sinh mạng, khiến ai cũng như ai. Làm cho cái Pháp mà Phật đã trải qua 3 vô số kiếp, hy sinh vô số đầu mắt tủy não, quốc thành thê tử, thân thịt tay chân, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tiến, phụng sự thiện hữu, không tiếc tính mạng trong việc tu tập các nhân tố của tuệ giác Bồ đề mới thực hiện được, cái Pháp ấy nhất đán đến ta, gặp trở ngại mà thoái chí là mất tất cả, thật đáng thống hận. Nay ta đã làm con Phật, vậy mà không nỗ lực phấn đấu, ngồi mà nhìn con mắt tuệ giác của pháp giới chúng sinh mù mất, thì thật đau lòng còn hơn cắt da xả thịt. Do đó mà tôi y cứ kinh điển, lập ra "10 hạnh trở ngại lớn lao", mệnh danh là "10 hạnh không cầu". Tình đời dẫu chẳng ai muốn trở ngại, nhưng cố gắng chấp nhận thì những trở ngại ấy hiện ra, thân tâm ta nhờ đã nung luyện trước trong đó, nên các thứ ma, mọi thứ ác, hết thảy trở ngại không thể khuynh đảo hay cản trở được nữa. Như vàng ở trong lò lửa, lửa nung vàng, nhưng vàng lại nhờ đó mà thành vật dụng...
Và "10 hạnh không cầu" ấy tôi đổi tên là "10 điều tâm niệm".

Hòa thượng Thích Trí Quang

Đổi Thay Và Nội Dung
Sau khi làm việc cho Bồ tát giới, Tỳ kheo giới, Tỳ kheo ni giới, Thức xoa giới, nay tôi làm việc cho Sa di giới và Sa di ni giới. Như vậy là 6 giới bổn của xuất gia đã đủ cả. Làm việc cho Sa di giới và Sa di ni giới như thế nào? Nguyên năm 2516 (1972) tôi đã biên tập bộ Luật Sa di và Sa di ni, gồm có 3 tập. Nay tu chỉnh bộ ấy, tu chỉnh cho gọn gàng hơn, và đổi ra tên Sa di giới và Sa di ni giới, chia làm 2 tập.

Cũng như sách cũ, sách mới này gồm có 9 tiểu phẩm:
1 là kinh Di giáo,
2 là kinh Bát đại nhân giác,
3 là văn Khuyến phát Bồ đề tâm,
4 là Phát Bồ đề tâm (phụ cho số 3),
5 là Cảnh sách,
6 là Tỳ ni,
7 là Sa di luật nghi,
8 là Sa di ni luật nghi,
9 là Sa di luật nghi lục yếu (phụ cho 2 số 7 và 8).
Trong 9 tiểu phẩm này, 3 tiểu phẩm 5, 6, 7, thường gọi là "luật tiểu", còn tiểu phẩm 8 là sao lục Vạn 106/349-355.
Tất cả 9 tiểu phẩm chia làm 2 loại: Một, loại "phù trì của Sa di giới và Sa di ni giới", gồm các tiểu phẩm 1, 2, 3, 4, 5, 6 (loại này xưa chỉ có 2 tiểu phẩm 5 và 6, nay tôi thêm các tiểu phẩm 1, 2, 3, 4). Hai, là loại "chủ yếu của Sa di giới và Sa di ni giới" gồm các tiểu phẩm 7, 8, 9. Với 9 tiểu phẩm và 2 loại như vậy, sách này chia làm 2 tập.
Tập 1, chỉ để tụng, học thuộc lòng, gồm có 3 phần: Một, "phần kính phụng Di giáo", chỉ dịch nghĩa kinh này. Hai, "phần dịch âm dịch nghĩa" Tỳ ni, Cảnh sách, Sa di luật nghi, Sa di ni luật nghi. Ba, "phần sao lục Hoa văn" của 4 tiểu phẩm trên. Trong 2 phần Hai và Ba, mỗi đoạn có đánh dấu giả đặt để dễ dò.
Tập 2, chỉ để học ý nghĩa, gồm có 2 loại: Một, "loại phù trì của Sa di giới và Sa di ni giới", là dịch nghĩa và chú giải 6 tiểu phẩm Di giáo, Bát đại nhân giác, Phát Bồ đề tâm văn, Phát Bồ đề tâm, Cảnh sách, Tỳ ni. Hai, "loại chủ yếu của Sa di giới và Sa di ni giới", là dịch nghĩa và chú giải 2 tiểu phẩm Sa di luật nghi và Sa di ni luật nghi, phụ lục tiểu phẩm 9. Khác với sách cũ, trọn tập 2 này không còn để phần dịch âm của bất cứ tiểu phẩm nào.

2/ Phần Kính Phụng Di Giáo
Ý Nghĩa Của Nội Dung
Nay nên nói tổng quát về ý nghĩa nội dung của sách này, tức của 9 tiểu phẩm.
Một, kinh Di giáo nói Phật diệt độ rồi thì Giới là Thầy; Giới ấy là pháp thân còn mãi của Phật; và hành trì thì phải "bất phóng dật": đó là giáo huấn tối hậu của Phật.
Hai, kinh Bát đại nhân giác thì luận Phân biệt công đức nói "bát đại nhân niệm" (Chính 25/51); tôi chắc 8 điều giác ngộ kinh này nói, vốn được tuyển tập như trường hợp kinh Pháp cú: sự quan trọng của 8 điều ấy là ở đó.
Ba, văn Khuyến phát Bồ đề tâm nói về chí nguyện của người xuất gia, mà quan trọng nhất là chí nguyện làm cho Phật pháp tồn tại.
Bốn, Phát Bồ đề tâm, giảng giải thật rõ, theo luận học, về sự phát Bồ đề tâm.
Năm, văn Cảnh sách thì nỗi bật nhất khi nói "người xuất gia là cất bước thì muốn vượt tới phương trời cao rộng, tâm tính và hình dung khác hẳn thế tục"; "trong lòng tự kỳ hẹn cho mình phải làm trụ cột cho Phật pháp, làm gương mẫu cho tương lai"; "cưỡng lại mà tự làm chủ tể, đừng thí thân theo tánh tình con người của mình".
Sáu, Tỳ ni thì nguyện "nghịch lưu", chính nơi đời sống này mà diệu hóa nó ra, và căn bản là phải biết 5 đức tính "một là phát tâm xuất gia, vì cảm bội Phật pháp; hai là hủy bỏ hình đẹp, vì thích ứng pháp y; ba là cát ái từ thân, vì không còn thân sơ; bốn là không kể thân mạng, vì tôn sùng Phật pháp; năm là chí cầu đại thừa, vì hóa độ mọi người.
Trên đây là ý nghĩa nội dung của 6 tiểu phẩm thuộc loại "phù trì của Sa di giới và Sa di ni giới".
Bảy, Sa di luật nghi thì nói về 10 giới luật và 24 uy nghi cho Sa di.
Tám, Sa di ni luật nghi thì nói về 10 giới luật và 22 uy nghi cho Sa di ni.
Chín, Sa di luật nghi lục yếu cũng nói về giới luật và uy nghi cho Sa di và Sa di ni.
Nhân tiểu phẩm này, cũng nên biết danh từ Sa di mà xưa nay dùng, tôi cũng dùng, hầu hết vốn chỉ cho cấp bậc Sa di, tức gồm cả Sa di và Sa di ni. Và trên đây là nội dung ý nghĩa của 3 tiểu phẩm thuộc loại "chủ yếu của Sa di giới và Sa di ni giới".

Mục Đích Nội Dung Ấy
Mục đích chính yếu, và có thể nói là duy nhất của Sa di giới và Sa di ni giới là để trở thành Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni. Giới pháp cấp bậc Sa di đòi hỏi cấp bậc này về làm thì làm đúng phần Sa di, mà còn làm theo Tỳ kheo trong một số việc cần tập trước; về biết cũng vậy, phải biết đúng phần Sa di mà còn phải biết một số điều cần biết trước về Tỳ kheo. Sa di đối với Tỳ kheo như vậy, thì Sa di ni đối với Tỳ kheo ni, dầu còn cách cấp bậc Thức xoa, cũng vẫn phải như vậy. Vì phải là Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni mới là Tăng số, là Tăng bảo trong Tam bảo, và người xuất gia, cuối cùng, phải đứng vào Tăng số ấy.
Nhưng trách nhiệm của ai quan trọng nhất trong mục đích nói trên? Ai là người có trách nhiệm làm cho cấp bậc Sa di trở thành cấp bậc Tỳ kheo? Người đó chính là vị Thầy. Giới luật không cho ai chưa thọ đại giới mà được coi đến đại giới. Như vậy làm sao cho cấp bậc Sa di có đủ tư cách thọ đại giới, làm sao bảo đảm họ có tư cách ấy, thì đó là nhiệm vụ của vị Thầy. Khi chung thẩm về tư cách này thì chính vị thầy làm với sự cộng tác bởi 10 vị Tỳ kheo là ít nhất. Việc tự bảo đảm có tư cách thọ đại giới hay chưa, hay không, thì bản thân cấp bậc Sa di không thể tự làm mà được tín nhiệm và chấp thuận. Vị thầy quan trọng như vậy nên Ngũ phần luật nói, "Thầy thương trò như con, trò trọng thầy như cha, siêng năng dạy bảo thì có thể làm cho Phật pháp rộng ra và còn mãi" (Chính 22/110).

Tài Liệu Và Mục Lục
Tài liệu được sử dụng trong sách này khá nhiều, và được ghi rõ nơi mấy trang đầu tiên của các bản dịch giải mỗi tiểu phẩm. Nên ở đây không cần kê lại. Ở đây chỉ kê 3 tài liệu sử dụng nhiều nhất và 1 tài liệu sử dụng ít thôi, nhưng có ký hiệu cần biết trước, đó là.
Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu. Ký hiệu là Chính, thí dụ Chính 1/100, là Đại tạng ấy, tập 1, trang 100. Mỗi trang có 3 khoảng trên giữa dưới, nhưng sách này không ghi rõ khoảng ấy và dòng chữ.
Tục tạng kinh bản chữ Vạn. Ký hiệu là Vạn, thí dụ Vạn 1/100 là Tục tạng ấy, tập 1 tờ 100. Mỗi tờ có 2 mặt a và b, mỗi mặt có 2 khoảng trên dưới, nhưng sách này cũng không ghi rõ những chi tiết ấy.
Phật học đại từ điển của Đinh Phước Bảo. Ký hiệu là Bảo, thí dụ Bảo 100, là đại từ điển ấy, trang 100. Mỗi trang có 3 khoảng trên giữa dưới, và dĩ nhiên có từ. Nhưng sách này cũng không ghi những chi tiết ấy.
Phật học nghiên cứu thập bát thiên, của Lương Khải Siêu. Sách có 18 bài. Ký hiệu là Siêu 1/10, tức sách ấy, bài 1 trang 10. Nay nói đến mục lục. Đáng lẽ mục lục phải làm đủ chi tiết. Nhưng mục lục đầu 2 tập của sách này chỉ ghi tên 9 tiểu phẩm. Còn mục chi tiết thì ghi thành trang đầu tiên khi dịch giải mỗi tiểu phẩm.

Thần Chú Để Giữ Giới
Muốn giữ giới, bất cứ giới phẩm nào, Luật tạng dạy phải "thiểu dục tri túc", ít ham muốn, biết vừa đủ; lại dạy thêm 1 hạnh nữa là "tàm quí", tự hổ thẹn, hổ thẹn người. Nay tôi xin trích 4 câu sau đây, và gọi đó là "thần chú giữ giới" - trích trong Chính 24/951: "đi như Phật đi, đứng như Phật đứng, nhìn như Phật nhìn, nói như Phật nói".

Hòa Thượng Thích Trí Quang

Phần Kính Phụng Di Giáo
Nhất tâm đảnh lễ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng Phật bảo khắp cả pháp giới.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp Niết bàn, cùng Pháp bảo khắp cả pháp giới.
Nhất tâm đảnh lễ đại chúng Tỳ kheo trong đêm Phật sắp Niết bàn, cùng Tăng bảo khắp cả pháp giới.
Kính lạy đức Thế Tôn,
biển công đức vô thượng,
thương xót độ chúng sinh,
nên con xin qui mạng.
Pháp tạng sâu và sạch,
tăng tiến cho hành giả
bằng pháp thế xuất thế,
con xin lạy tất cả.
Nay con nguyện thọ trì
Pháp tạng ấy của Phật,
để biết đạo phương tiện
của Bồ tát tu tập.
Biết đạo phương tiện ấy
thì Phật pháp trường tồn,
diệt trừ lỗi phàm thánh,
thành tựu lợi tự tha.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp Niết bàn (cũng gọi là kinh Giáo huấn để lại của Phật)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp lần đầu tiên hóa độ tôn giả Kiều Trần Như, thuyết pháp lần cuối cùng hóa độ tôn giả Tu Bạt Đà La. Những người có thể hóa độ, Ngài đã hóa độ tất cả. Hôm nay, trong rừng Sa la, giữa cây song thọ, Ngài sắp Niết bàn. Bấy giờ là lúc giữa đêm, hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động, Ngài đã vì các đệ tử mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh pháp.
Các thầy Tỳ kheo, sau khi Như Lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Như Lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy.
Giữ tịnh giới thì các thầy không được buôn, bán, đổi chác, sắm sửa đất nhà, nuôi người, tôi tớ và súc vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh tài bảo. Tất cả việc này, hãy tránh như tránh hố lửa. Kể cả việc chặt phá cỏ cây và đào cuốc đất đai. Những việc chế thuốc thang, coi bói tướng, coi thiên văn, đoán thời tiết, tính lịch số, đều không thích hợp với các thầy. Các thầy hãy tiết chế cơ thể, ăn đúng thì giờ, sống bằng cách sống trong sạch, không được tham dự thế sự, lãnh sứ mạng liên lạc. Chú thuật, thuốc tiên, giao hảo quyền quí, và thân thiết với họ, rồi hèn hạ, ngạo mạn, tất cả đều không được làm. Phải tự đoan tâm, chánh niệm cầu độ. Không được che giấu lầm lỗi, tỏ ra kỳ dị để mê hoặc quần chúng. Đối với bốn sự hiến cúng thì phải biết tự lượng và biết vừa đủ. Hễ được hiến cúng thì không nên tích trữ.
Đó là Như Lai nói tóm tắt về sự giữ giới. Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải thoát, nên Như Lai mệnh danh Ba La Đề Mộc Xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định, và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ.
Thế nên, các thầy Tỳ kheo, hãy giữ tịnh giới, đừng cho vi phạm, thiếu sót. Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sinh. Do đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức.
Các thầy Tỳ kheo, đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự năm thứ giác quan, không cho phóng túng vào trong năm thứ dục lạc. Như kẻ chăn trâu, cầm gậy mà coi giữ, không cho phóng túng, phạm vào lúa má của người. Phóng túng năm thứ giác quan, thì không những chỉ có năm thứ dục lạc, mà có thể sẽ không còn giới hạn nào nữa, không thể cấm chế. Như con ngựa hung hãn mà không được chế ngự bằng giây cương, thì sẽ mang người lao xuống hầm hố. Giặc cướp làm hại, khổ chỉ một đời, còn giặc giác quan họa đến nhiều kiếp: tai hại rất nặng, các thầy không thể không cẩn thận. Thế nên người có trí thì chế ngự mà không theo, giữ như giữ giặc, không cho phóng túng. Giả sử phóng túng năm thứ giác quan, thì cũng không bao lâu ta sẽ thấy chúng tàn diệt tất cả.
Các thầy Tỳ kheo, năm thứ giác quan do tâm chủ động, vì vậy mà các thầy lại phải thận trọng chế ngự tâm mình. Tâm còn đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc thù, lửa dữ bùng cháy lan tràn cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm. Như một kẻ tay bưng bát mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ không thấy hố sâu, như thế không khác gì voi điên mà không có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng, thì sẽ hung hăng nhảy vọt, khó mà ngăn cản; các thầy phải cấp tốc tỏa chiết, đừng cho phóng túng. Phóng túng tâm ra thì làm tan nát việc thiện của người. Chế ngự tâm lại một chỗ thì không việc gì không thành. Thế nên, các thầy Tỳ kheo, hãy nỗ lực tinh tiến mà chiết phục tâm mình.
Các thầy Tỳ kheo, thọ dụng đồ ăn thức uống, hãy coi như việc uống thuốc, ngon không ham, dở không bỏ, vừa đủ duy trì cơ thể cho khỏi đói khát. Như ong lấy hoa, chỉ lấy mùi vị mà không tổn thương hương sắc, người xuất gia cũng vậy. Thọ dụng cúng phẩm của người vừa khỏi đói khát thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Hãy bắt chước kẻ khôn ngoan, biết lượng sức lực con trâu của mình chịu đựng nhiều ít, không dùng quá sức đến nỗi kiệt lực.
Các thầy Tỳ kheo, ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, đầu đêm cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng niệm để tự tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện. Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để đời mình trôi đi, không được một chút ích lợi. Hãy nhớ ngọn lửa vô thường đốt cháy thế gian, để sớm cầu tự độ, đừng ham ngủ nghỉ. Giặc phiền não thường rình giết ta, dữ hơn kẻ thù, tại sao ta có thể ngủ nghỉ mà không tự cảnh giác? Phiền não ngủ trong tâm, cũng như rắn hổ mang màu đen nằm ngủ trong nhà, các thầy phải dùng móc sắt giữ giới mà cấp tốc móc kéo nó ra. Rắn ngủ ra rồi mới nên yên tâm ngủ nghỉ. Không ra mà ngủ thì thật là kẻ không biết hổ thẹn. Sự hổ thẹn là phục sức đẹp nhất trong mọi thứ phục sức. Như cái móc sắt, sự hổ thẹn có năng lực chế ngự mọi thứ phi pháp của con người. Thế nên, các thầy Tỳ kheo, hãy luôn luôn biết hổ thẹn, sỉ nhục, đừng bao giờ, dầu chỉ tạm thời mà thôi, được phép quên mất đức tính ấy. Mất hổ thẹn là mất công đức. Có hổ thẹn là có thiện pháp, không hổ thẹn thì không khác gì cầm thú.
Các thầy Tỳ kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự kềm chế tâm mình, đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận dữ nỗi lên là tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức. Đức tính của Nhẫn, giữ giới và khổ hạnh không thể sánh bằng. Thực hành đức Nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức mạnh. Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Tại sao, vì giận dữ thì phá hủy hết thảy thiện pháp và danh tiếng đáng quí, hiện tại vị lai không ai muốn nhìn. Sự giận dữ hơn cả ngọn lửa ác liệt, vì thế mà các thầy phải đề phòng một cách thường trực, đừng cho xâm nhập tâm trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ. Thế gian hưởng thụ dục lạc, không phải là kẻ hành đạo, không có phương pháp để tự khống chế, thế nên giận dữ thì còn có thể tha thứ được. Còn người xuất gia hành đạo là kẻ loại bỏ dục vọng, vậy mà giận dữ thì thật bất đáng; không khác gì giữa bầu trời mây trong mát mà sấm sét lóe lửa là điều không thích hợp.
Các thầy Tỳ kheo, hãy tự xoa đầu mình, đã bỏ sự trang sức và đồ tốt đẹp, mình mặc áo hoại sắc, tay cầm đồ thích ứng, khất thực để sống; tự thấy như vậy mà kiêu ngạo còn nỗi lên, thì phải cấp tốc tỏa chiết. Tăng thêm kiêu ngạo là điều mà thế nhân còn không nên có, huống chi người xuất gia nhập đạo là kẻ vì giải thoát, tự giáng mình xuống mà đi khất thực?
Các thầy Tỳ kheo, tâm lý dua nịnh quanh co trái ngược đạo pháp, thế nên các thầy phải chất trực tâm mình. Phải ý thức dua nịnh quanh co chỉ để dối trá, mà người nhập đạo thì không thể như vậy. Vì thế mà các thầy cần phải ngay thẳng tâm mình, lấy đức tính chất trực làm căn bản.
Các thầy Tỳ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì vì nhiều sự cầu lợi nên khổ não cũng nhiều. Còn người ít ham muốn thì không cầu hồ, không dục vọng, nên không có cái họa đó. Chỉ có như thế mà thôi, sự ít ham muốn cũng đã phải thực tập, huống chi sự ấy còn đem lại đủ các công đức. Người ít ham muốn thì không dua nịnh quanh co để cầu được lòng người, cũng không bị các giác quan lôi kéo. Thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thừa thải, không bao giờ có cảm giác thiếu thốn. Có ít ham muốn là có Niết bàn. Đó là hạnh ít ham muốn.
Các thầy Tỳ kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự biết vừa đủ. Chính sự biết vừa đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn. Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ thì ở thiên đường cũng vẫn bất mãn. Không biết vừa đủ thì giàu mà nghèo, biết vừa đủ thì nghèo mà giàu. Không biết vừa đủ thì luôn luôn bị cả năm thứ dục lạc lôi kéo, làm cho người biết vừa đủ phải xót thương. Đó là hạnh biết vừa đủ.
Các thầy Tỳ kheo, muốn cầu yên tĩnh, vô vi và an lạc, thì các thầy hãy thoát ly mọi sự ồn ào và bối rối, ở đơn độc và ở một cách thư thái. Người ở yên tĩnh thì chúa trời Đế thích và chư thiên đều tôn kính. Vì thế mà các thầy hãy thoát ly đồ chúng của mình, và đồ chúng của người, ở đơn độc, thư thái và thanh vắng, dùng "tư duy tu" mà cắt đứt gốc rễ đau khổ. Nếu thích đồ chúng thì sẽ bị đồ chúng quấy phá, như cây đại thọ mà cả bầy chim chóc tập hợp lại thì vẫn bị cái họa khô gãy. Thế gian ràng buộc mà chìm ngập thống khổ, thì cũng không khác gì voi già mà sa xuống bùn lầy, hết mong thoát khỏi. Đó là hạnh siêu thoát.
Các thầy Tỳ kheo, nỗ lực tinh tiến thì không có việc gì khó khăn. Thế nên các thầy phải thực hành sự nỗ lực tinh tiến. Nước nhỏ mà chảy mãi thì có thể xuyên thủng cả đá. Nếu người hành đạo mà hay biếng nhác phế bỏ, thì cũng như kéo lửa chưa nóng mà đã ngừng, dầu thiết tha có lửa, lửa cũng khó mà có được. Đó là hạnh tinh tiến.
Các thầy Tỳ kheo, cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trì và cầu thiện hỗ trợ, đều không bằng không quên chánh niệm. Không quên chánh niệm thì giặc phiền não hết cách xâm nhập tâm trí. Thế nên các thầy hãy luôn luôn tập trung chánh niệm lại nơi tâm trí. Mất chánh niệm là mất công đức. Nếu chánh niệm có sức lực vững mạnh, thì dẫu phải vào trong đám giặc ngũ dục, cũng không bị chúng sát hại; tựa như tướng sĩ lâm trận mà mặc áo giáp lát đồng, thì không còn sợ hãi gì nữa. Đó là hạnh không quên chánh niệm.
Các thầy Tỳ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tiến, nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định được thì tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì phải đắp đê sửa bờ cho khéo, hành giả cũng vậy, hãy vì nước trí tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó khỏi chảy mất. Đó là hạnh thiền định.
Các thầy Tỳ kheo, có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò xét, không để lầm lỗi có thể có được, như thế là trong chánh pháp của Như Lai, người ấy có khả năng thực hiện giải thoát. Không như thế thì đã không phải xuất gia, lại không phải thế tục, không còn biết gọi là gì. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc nhất vượt biển sinh lão bịnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bịnh tật, là búa sắc chặt cây phiền não. Vì thế mà các thầy hãy dùng cái tuệ văn tư tu chứng để tự tăng tiến ích lợi. Có trí tuệ soi chiếu, thì dẫu mắt thịt, cũng vẫn là kẻ thấy rõ nhất. Đó là hạnh trí tuệ.
Các thầy Tỳ kheo, nếu hý luận đủ thứ thì tâm trí rối loạn. Như vậy, tuy đã xuất gia mà chưa được siêu thoát. Thế nên, các thầy Tỳ kheo, hãy từ bỏ tức khắc sự hý luận rối loạn tâm trí. Các thầy muốn thực hiện cái vui tịch diệt, thì chỉ có cách cấp tốc diệt trừ cái họa hý luận. Đó là hạnh không hý luận.
Các thầy Tỳ kheo, đối với mọi thứ công đức, các thầy hãy thường xuyên nhất tâm tu tập, tránh sự phóng dật như tránh giặc thù. Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói chánh pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành. Hoặc trong rừng núi, hoặc cạnh đầm vắng, hoặc dưới đại thọ, các thầy hãy ở một cách thư thái, trong tịnh thất nhỏ, nhớ và chiêm nghiệm chánh pháp đã tiếp nhận, đừng để quên mất. Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình sẽ chết đi một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận. Như Lai như vị lương y, biết bịnh mà chỉ thuốc, còn uống hay không, không phải lỗi của lương y. Lại như người dẫn đường rất tốt, chỉ dẫn đường tốt cho người, nhưng nghe rồi mà không đi, thì không phải lỗi của người dẫn đường.
Các thầy Tỳ kheo, đối với bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cầu giải đáp. Thế Tôn nói lên ba lần như vậy, nhưng không ai chất vấn. Vì lẽ chư Tăng không có ai còn hoài nghi gì nữa. Bấy giờ tôn giả A nâu lâu đà quán sát tâm trí chư Tăng, rồi thưa với Ngài, bạch đức Thế Tôn, mặt trăng có thể làm cho nóng lên, mặt trời có thể làm cho lạnh đi, nhưng bốn chân lý mà đức Thế Tôn đã dạy thì không thể làm cho khác đi được. Ngài dạy khổ thì thật là khổ, không thể làm cho vui lên; tập là nguyên nhân của khổ, thì không còn có nguyên nhân nào khác nữa; diệt là khổ diệt vì nguyên nhân đã diệt, mà nguyên nhân diệt thì kết quả cũng diệt; đạo là phương pháp diệt khổ nên thật là đạo, không có đạo nào khác hơn. Bạch đức Thế Tôn, đối với bốn chân lý, các vị Tỳ kheo đây đã quyết định, không còn hoài nghi gì nữa.
Chư Tăng lúc ấy, những người tu học chưa hoàn tất, thì thấy Phật diệt độ hãy còn bi cảm. Những người mới vào chánh pháp, nghe Phật nói liền được hóa độ, như trong đêm tối mà điện chớp sáng là thấy ngay đường đi. Còn những người tu học đã hoàn tất, đã vượt qua biển khổ, thì chỉ nghĩ rằng, đức Thế Tôn diệt độ sao mà mau chóng như vậy.
Do đó, tôn giả A Nâu Lâu Đà tuy đã bạch Phật, rằng chư Tăng ai cũng thấu triệt bốn chân lý, nhưng đức Thế Tôn muốn làm cho tất cả đều được kiên định, nên vẫn đem tâm đại bi mà huấn dụ thêm nữa. Các thầy Tỳ kheo, không nên buồn rầu; nếu Như Lai ở đời lâu đến một đại kiếp đi nữa, thì sự kết hợp nào rồi cũng phải tan rã. Kết hợp mà không tan rã là điều không thể có được. Chánh pháp tự lợi lợi tha đã có đầy đủ. Như Lai sống cho lâu cũng không còn ích lợi gì nữa. Ai có khả năng tiếp nhận hóa độ, thì ở trên chư thiên hay ở trong nhân loại, Như Lai đã hóa độ tất cả. Ai chưa thể tiếp nhận hóa độ, thì Như Lai cũng đã tạo yếu tố hóa độ cho họ. Từ nay về sau, đệ tử của Như Lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như Lai thường trú bất diệt.
Thế nên, các thầy Tỳ kheo, phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường, có kết hợp thì có tan rã, đừng lo buồn gì cả. Ngược lại, cuộc đời như thế thì các thầy phải nỗ lực tinh tiến để sớm cầu tự độ, đem ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh, không một thứ chi bền bỉ. Như Lai được diệt độ thì cũng như trừ được cơn bịnh khủng khiếp. Đây là vật tội ác và đáng bỏ, giả hiệu là thân thể mà lại chìm ngập trong biển cả già bịnh sống chết, như thế người có trí tuệ ai lại không hoan hỷ khi trừ bỏ được thân này như trừ bỏ kẻ thù?
Các thầy Tỳ kheo, hãy thường nhất tâm, nỗ lực cần cầu tuệ giác giải thoát. Toàn thể vũ trụ, dầu pháp biến động hay pháp bất động, đều là trạng thái bất an và tan rã. Thôi, các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa. Thì giờ sắp hết, Như Lai muốn diệt độ. Trên đây là những lời giáo huấn tối hậu của Như Lai.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đệ tử chúng con
kính tụng di giáo
của đức Thế Tôn
lúc sắp Niết bàn.
Kinh Di giáo này
là pháp tối thượng
trong những khả năng
duy trì Phật pháp.
Đệ tử chúng con
nhờ phước quá khứ
mới được xuất gia
và tụng kinh này.
Nguyện cầu chúng con
giới hạnh an toàn,
lại cầu chư Tăng
giới pháp thanh tịnh.
Làm cho Phật pháp
tồn tại lâu dài,
tự lợi lợi tha,
chứng pháp tối thượng.
Nhất tâm đảnh lễ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng Phật bảo khắp cả pháp giới.
Nhất tâm đảnh lễ kinh Giáo huấn vắn tắt của Phật lúc sắp Niết bàn, cùng Pháp bảo khắp cả pháp giới.
Nhất tâm đảnh lễ đại chúng Tỳ kheo trong đêm Phật sắp Niết bàn, cùng Tăng bảo khắp cả pháp giới.

3/ Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu
(Những Điều Nhật Dụng Thiết Yếu Của Giới Luật)
Bảo hoa sơn, hoằng giới Tỳ kheo Độc thể vựng tập (Độc thể, Tỳ kheo hoằng truyền giới pháp, ở núi Bảo hoa, tập hợp)

(1) Tảo giác (sáng sớm thức dậy)
Thụy miên thỉ ngộ, đương nguyện chúng sanh, nhất thiết trí giác, châu cố thập phương.
Ngủ nghỉ mới thức, nên nguyện chúng sanh, tất cả trí giác, nhìn khắp mười phương.
(2) Minh chung (đánh hồng chung)
Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, thiết vi u ám tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thiết chúng sanh thành chánh giác.
Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới, thiết vi u ám cùng nghe được, căn cảnh thanh tịnh chứng viên thông, hết thảy chúng sanh thành chánh giác.
(3) Văn chung (nghe hồng chung)
Văn chung thanh, phiền não khinh, trí tuệ trưởng, Bồ đề sanh, ly địa ngục, xuất hoả khanh, nguyện thành Phật, độ chúng sanh. Án già ra đế da sa ha (3 lần).
Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ, trí tuệ lớn, Bồ đề sanh, thoát địa ngục, vượt hầm lửa, nguyện thành Phật, độ chúng sanh. Án già ra đế da sa ha (3 lần).
(4) Trước y (mặc y phục)
Nhược trước thượng y, đương nguyện chúng sanh, hoạch thắng thiện căn, chí pháp bỉ ngạn. Trước hạ quần thời, đương nguyện chúng sanh, phục chư thiện căn, cụ túc tàm quí. Chỉnh y thúc đới, đương nguyện chúng sanh, kiểm thúc thiện căn, bất linh tán thất.
Nếu mặc áo trên, nên nguyện chúng sanh, được thiện căn tốt, đến bờ bên kia. Nếu mặc quần dưới, nên nguyện chúng sanh, mặc các thiện căn, đầy đủ hổ thẹn. Sửa áo buộc dải, nên nguyện chúng sanh, kiểm buộc thiện căn, không để rơi mất.
(5) Hạ đơn (xuống đơn)
Tùng triêu dần đán trực chí mộ, nhất thiết chúng sanh tự hồi hộ, nhược ư túc hạ táng kỳ hình, nguyện nhữ tức thời sanh tịnh độ. Án dật đế luật ni sa ha (3 lần).
Từ sáng giờ dần suốt đến tối, hết thảy chúng sanh tự tránh giữ, nếu rủi mất mạng dưới chân tôi, cầu nguyện tức thì sanh tịnh độ. Án dật đế luật ni sa ha (3 lần).
(6) Hành bộ bất thương trùng (bước đi không hại sâu bọ)
Nhược cử ư túc, đương nguyện chúng sanh, xuất sanh tử hải, cụ chúng thiện pháp. Án địa lị nhật lị sa ha (3 lần).
Cất bước chân lên, nên nguyện chúng sanh, vượt biển sanh tử, đủ mọi thiện pháp. Án địa lị nhật lị sa ha (3 lần).
(7) Xuất đường (ra khỏi nhà)
Tùng xá xuất thời, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập Phật trí, vĩnh xuất tam giới.
Từ nhà đi ra, nên nguyện chúng sanh, vào sâu trí Phật, thoát hẳn ba cõi.
(8) Đăng xí (vào nhà xí)
Đại tiểu tiện thời, đương nguyện chúng sanh, khí tham sân si, quyên trừ tội pháp. Án ngận lỗ đà da sa ha.
Đại tiện tiểu tiện, nên nguyện chúng sanh, xả tham sân si, loại trừ tội lỗi. Án ngận lỗ đà da sa ha.
(9) Tẩy tịnh (rửa sạch)
Sự ngật tựu thủy, đương nguyện chúng sanh, xuất thế pháp trung, tốc tật nhi vãng. Án thất lị bà hê sa ha (3 lần).
Việc xong đến nước, nên nguyện chúng sanh, mau chóng đi đến, trong pháp xuất thế. Án thất lị bà hê sa ha (3 lần).
(10) Khử uế (khử bẩn)
Tẩy địch hình uế, đương nguyện chúng sanh, thanh tịnh điều nhu, tất cách vô cấu. Án hạ nẳng mật lật đế sa ha (3 lần).
Tẩy rửa mình bẩn, nên nguyện chúng sanh, thanh tịnh thuần hóa, tuyệt đối không dơ. Án hạ nẵng mật lật đế sa ha (3 lần).
(11) Tẩy thủ (rửa tay)
Dĩ thủy quán chưởng, đương nguyện chúng sanh, đắc thanh tịnh thủ, thọ trì Phật pháp. Án chủ ca ra da sa ha (3 lần).
Lấy nước rửa tay, nên nguyện chúng sanh, được tay thanh tịnh, nhận giữ Phật pháp. Án chủ ca ra da sa ha (3 lần).
(12) Tẩy diện (rửa mặt)
Dĩ thủy tẩy diện, đương nguyện chúng sanh, đắc tịnh pháp môn, vĩnh vô cấu nhiễm. Án lam sa ha (21 lần).
Lấy nước rửa mặt, nên nguyện chúng sanh, được pháp thanh tịnh, hết hẳn dơ bẩn. Án lam sa ha (21 lần).
(13) Ẩm thủy (uống nước)
Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, nhược bất trì thử chú, như thực chúng sanh nhục. Án phạ tất ba ra ma ni sa ha (3 lần).
Phật nhìn một bát nước, tám vạn tư vi sinh, nếu không trì chú này, như ăn thịt chúng sanh. Án phạ tất ba ra ma ni sa ha (3 lần).
(14) Ngũ y (pháp y 5 điều)
Thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, ngã kim đảnh đới thọ, thế thế bất xả ly. Án tất đà da sa ha (3 lần).
Lành thay áo giải thoát, áo ruộng phước tối thượng, nay tôi kính tiếp nhận, đời đời không rời bỏ. Án tất đà da sa ha (3 lần).
(15) Thất y (pháp y 7 điều)
Thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, ngã kim đảnh đới thọ, thế thế thường đắc phi. Án độ ba độ ba sa ha (3 lần).
Lành thay áo giải thoát, áo ruộng phước tối thượng, nay tôi kính tiếp nhận, đời đời thường khoác mặc. Án độ ba độ ba sa ha (3 lần).
(16) Đại y (pháp y lớn)
Thiện tai giải thoát phục, vô thượng phước điền y, phụng trì Như Lai mạng, quảng độ chư chúng sanh. Án ma ha ca bà ba tra tất đế sa ha (3 lần).
Lành thay áo giải thoát, áo ruộng phước tối thượng, phụng hành lịnh Như Lai, hóa độ cho tất cả. Án ma ha ca bà ba tra tất đế sa ha (3 lần).
Phụ lục.- Man y (pháp y không điều).
Đại tai giải thoát phục, vô tướng phước điền y, phi phụng như giới hạnh, quảng độ chư chúng sanh.
Lớn thay áo giải thoát, áo ruộng phước vô tướng, mặc kính đúng giới hạnh, hóa độ mọi chúng sanh.
(17) Ngọa cụ (đồ nằm)
Ngọa cụ ni sư đàn, trưởng dưỡng tâm miêu tánh, triển khai đăng thánh địa, phụng trì Như Lai mạng. Án đàn ba đàn ba sa ha (3 lần).
Ngọa cụ ni sư đàn, nuôi lớn lúa tâm tánh, mở ra lên thánh địa, phụng hành lịnh Như Lai. Án đàn ba đàn ba sa ha (3 lần).
(18) Đăng đạo tràng (lên đạo tràng)
Nhược đắc kiến Phật, đương nguyện chúng sanh, đắc vô ngại nhãn, kiến nhất thiết Phật. Án a mật lật đế hồng phấn tra (3 lần).
Được nhìn thấy Phật, nên nguyện chúng sanh, được mắt vô ngại, thấy được chư Phật. Án a mật lật đế hồng phấn tra (3 lần).
(19) Tán Phật (ca tụng Phật)
Pháp vương vô thượng tôn, tam giới vô luân thất, thiên nhân chi đạo sư, tứ sanh chi từ phụ, ngã kim tạm qui y, năng diệt tam kỳ nghiệp, xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận.
Đấng Pháp vương vô thượng, ba cõi không ai bằng, Đạo sư của trời người, Từ phụ của tứ sanh, dẫu qui y chốc lát, cũng diệt nghiệp vô số, ca tụng hay tán thán, ức kiếp cũng không cùng.
(20) Lễ Phật (lạy Phật)
Thiên thượng thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới diệc vô tỷ, thế gian sở hữu ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả.
Trên trời dưới trời không ai bằng, mười phương thế giới cũng không kịp, toàn thể thế giới con nhìn thấy, tất cả không ai được như Phật.
(21) Phổ lễ chân ngôn (chân ngôn đảnh lễ khắp cả)
Án phạ nhật ra hộc. (3 lần)
(22) Cúng tịnh bình (cúng bình sạch)
Thủ chấp tịnh bình, đương nguyện chúng sanh, nội ngoại vô cấu, tất linh quang khiết. Án thế già lỗ ca sất hàm sất sa ha (3 lần).
Tay cầm tịnh bình, nên nguyện chúng sanh, trong ngoài không dơ, sạch sẽ tất cả. Án thế già lỗ ca sất hàm sất sa ha (3 lần).
(23) Đãng tịnh bình chân ngôn (chân ngôn súc tịnh bình)
Án lam sa ha (21 lần).
(24) Quán thủy chân ngôn (chân ngôn từ tịnh bình rót nước ra)
An phạ tất bát ra ma ni sa ha (3 lần).
Nẵng mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha, Án, tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, sa bà ha (3 lần).
(25) Thọ thực (thọ trai)
Nhược kiến không bát, đương nguyện chúng sanh, cứu cánh thanh tịnh, không vô phiền não.
Thấy bát khí trống, nên nguyện chúng sanh, cứu cánh thanh tịnh, trống không phiền não.
Nhược kiến mãn bát, đương nguyện chúng sanh, cụ túc thạnh mãn, nhất thiết thiện pháp.
Thấy bát khí đầy, nên nguyện chúng sanh, chứa đựng đầy đủ, tất cả thiện pháp.
(26) Xuất sanh (xuất cho chúng sanh)
Pháp lực bất tư nghị, từ bi vô chướng ngại, thất lạp biến thập phương, phổ thí châu sa giới. Án độ lợi ích sa ha (niệm chú này 3 lần, mỗi lần gãy móng tay 1 cái).
Pháp lực khó nghĩ bàn, từ bi không chướng ngại, bảy hạt bủa mười phương, khắp cho cả pháp giới. Án độ lợi ích sa ha (niệm chú này 3 lần, mỗi lần gãy móng tay 1 cái).
Đại bằng kim sí điểu, khoáng dã quỉ thần chúng, la sát quỉ tử mẫu, cam lộ tất sung mãn. Án mục đế sa ha (niệm chú này 3 lần, mỗi lần gãy móng tay 1 cái).
Chim đại bằng cánh vàng, chúng quỉ thần đồng rộng, mẹ của quỉ la sát, cam lộ no đủ cả. Án mục đế sa ha (niệm chú này 3 lần, mỗi lần gãy móng tay 1 cái).
(27) Thị giả tống thực (thị giả đưa ăn)
Nhữ đẳng quỉ thần chúng, ngã kim thí nhữ cúng, thử thực biến thập phương, nhất thiết quỉ thần cọng. Án mục lực lăng sa ha (3 lần).
Chúng quỉ thần các người, nay tôi cho cúng phẩm, cúng phẩm này khắp cả, quỉ thần cùng hưởng thụ. Án mục lực lăng sa ha (3 lần).
(Xướng tăng bạt)
Phật chế Tỳ kheo, thực tồn ngũ quán, tán tâm tạp thoại, tín thí nan tiêu, đại chúng, văn khánh thanh, các chánh niệm.
Phật dạy Tỳ kheo, ăn xét năm điều, nghĩ sai nói chuyện, tín thí khó tiêu, đại chúng, nghe tiếng khánh, cùng chánh niệm.
(Ngày nay, ở đây, Tăng chúng cùng niệm "Nam mô A di đà Phật").
(Chính thức thọ thực)
Chấp trì ứng khí, đương nguyện chúng sanh, thành tựu pháp khí, thọ thiên nhân cúng. Án chỉ rị chỉ rị phạ nhật ra hồng phấn tra (3 lần).
Cầm nắm ứng khí, nên nguyện chúng sanh, trở thành pháp khí, thọ thiên nhân cúng. Án chỉ rị chỉ rị phạ nhật ra hồng phấn tra (3 lần).
Nguyện đoạn nhất thiết ác. Nguyện tu nhất thiết thiện. Thệ độ nhất thiết chúng sanh.
Nguyện đoạn tất cả điều ác. Nguyện tu tất cả điều lành. Nguyện độ tất cả chúng sanh.
Nhất kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ. Nhị thỗn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng. Tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông. Tứ chánh sự lương dược, vị liệu hình khô. Ngũ vị thành đạo nghiệp, ưng thọ thử thực.
Một, xét kể công lao nhiều ít và ước lượng lý do của thực phẩm. Hai, nghĩ kỹ đức hạnh của mình đủ hay thiếu để ứng thọ sự cúng dường. Ba, đề phòng tâm lý, tránh những tội lỗi mà tham sân si vẫn là chủ yếu. Bốn, chính vì lấy thực phẩm làm dược phẩm tốt để trị liệu thân hình khô yếu. Năm, vì thành đạo nghiệp mà ứng thọ thực phẩm này.
(28) Kiết trai (kết thúc sự thọ trai)
(Nguyên chú.- Trước tụng chú Chuẩn đề, kế tụng bài kệ dưới đây.)
Sở vị bố thí giả, tất hoạch kỳ lợi ích, nhược vị lạc cố thí, hậu tất đắc an lạc. Phạn thực dĩ ngật, đương nguyện chúng sanh, sở tác giai biện, cụ chư Phật pháp.
Gọi là bố thí, tất được ích lợi; vui thích bố thí, sau được an vui. Thọ thực hoàn tất, nên nguyện chúng sanh, việc làm hoàn tất, đủ mọi Phật pháp.
(29) Tẩy bát (rửa ứng khí)
Dĩ thử tẩy bát thủy, như thiên cam lộ vị, thí dữ chư quỉ thần, tất giai hoạch bảo mãn. Án ma hưu ra tất sa ha (3 lần).
Nước rửa bát khí, như nước Cam lộ, đem cho quỉ thần, được no đủ cả. Án ma hưu ra tất sa ha (3 lần).
(30) Triển bát (mở ứng khí)
Như Lai ứng lượng khí, ngã kim đắc phu triển, nguyện cọng nhất thiết chúng, đẳng tam luân không tịch. Án tư ma ma ni sa ha (3 lần).
Ứng khí của Như Lai, nay con được mở ra, nguyện cùng với mọi người, ba luân đều vắng lặng. Án tư ma ma ni sa ha (3 lần)
(31) Thọ sấn (nhận đồ cúng dường)
Tài pháp nhị thí, đẳng vô sai biệt, đàn ba la mật, cụ túc viên mãn.
Tài thí pháp thí, bình đẳng không khác, làm cho thí độ, đầy đủ trọn vẹn.
(32) Thủ dương chi (lấy tăm dương chi)
Thủ chấp dương chi, đương nguyện chúng sanh, giai đắc diệu pháp, cứu cánh thanh tịnh. Án tát ba phạ thuật đáp, tát rị ba, đáp rị ma, tát ba phạ thuật đát khoánh. Án lam sa ha (chú Tịnh pháp giới "Án lam sa ha" đọc 21 lần).
Cầm tăm dương chi, nên nguyện chúng sanh, cùng được diệu pháp, cứu cánh thanh tịnh. Án tát ba phạ thuật đáp, tát rị ba, đáp rị ma, tát ba phạ thuật đát khoánh. Án lam sa ha (chú Tịnh pháp giới "Án lam sa ha" đọc 21 lần).
(33) Tước dương chi (nhấm tăm dương chi)
Tước dương chi thời, đương nguyện chúng sanh, kỳ tâm điều tịnh, phệ chư phiền não. Án a mộ dà, di ma lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng thâu đà nễ, bát đầu ma, câu ma ra, nhĩ phạ tăng thâu đà da, đà ra đà ra, tố di ma lê, sa phạ ha (3 lần).
Nhấm tăm dương chi, nên nguyện chúng sanh, tâm tính thuần hóa, cắn nát phiền não. Án a mộ dà, di ma lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng thâu đà nễ, bát đầu ma, câu ma ra, nhĩ phạ tăng thâu đà da, đà ra đà ra, tố di ma lê, sa phạ ha (3 lần).
(34) Sấu khẩu (súc miệng)
Sấu khẩu liên tâm tịnh, vẫn thủy bách hoa hương, tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương. Án hám án hãn sa ha (3 lần).
Súc miệng lòng sạch luôn, miệng thơm mùi trăm hoa, ba nghiệp thường trong sạch, cùng Phật sinh Tây phương. Án hám án hãn sa ha (3 lần).
(35) Xuất tích trượng (lấy tích trượng)
Chấp trì tích trượng, đương nguyện chúng sanh, thiết đại thí hội, thị như thật đạo. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra (3 lần).
Cầm nắm tích trượng, nên nguyện chúng sanh, thiết hội đại thí, chỉ đường như thật. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra (3 lần).
(36) Phu đơn tọa thiền (bày đơn ngồi thiền)
Nhược phu sàng tọa, đương nguyện chúng sanh, khai phu thiện pháp, kiến chân thật tướng. Chánh thân đoan tọa, đương nguyện chúng sanh, tọa Bồ đề tòa, tâm vô sở trước. Án phạ tắc ra, a ni bát ra ni, ấp đa da sa ha (3 lần).
Bày giường ghế ra, nên nguyện chúng sanh, mở bày thiện pháp, thấy được thật tướng. Thẳng mình ngồi ngay, nên nguyện chúng sanh, ngồi tòa Bồ đề, tâm không vướng mắc. Án phạ tắc ra, a ni bát ra ni, ấp đa da sa ha (3 lần).
(37) Thụy miên (ngủ nghỉ)
Dĩ thời tẩm tức, đương nguyện chúng sanh, thân đắc an ẩn, tâm vô loạn động. A.
Ngủ nghỉ theo giờ, nên nguyện chúng sanh, thân được yên ổn, tâm không loạn động. A. (Chữ A viết theo Phạn tự cổ. Nguyên chú: quán tưởng vầng chữ A, 1 hơi niệm 21 lần).
(38) Thủ thủy (lấy nước)
Nhược kiến lưu thủy, đương nguyện chúng sanh, đắc thiện ý dục, tẩy trừ hoặc cấu. Nam mô Hoan hỷ trang nghiêm vương Phật. Nam mô Bảo kế Như Lai. Nam mô Vô lượng thắng vương Phật. Án phạ tất ba ra ma ni sa bà ha (3 lần).
Thấy dòng nước chảy, nên nguyện chúng sanh, được ý muốn tốt, rửa dơ phiền não. Nam mô Hoan hỷ trang nghiêm vương Phật. Nam mô Bảo kế Như Lai. Nam mô Vô lượng thắng vương Phật. Án phạ tất ba ra ma ni sa bà ha (3 lần).
Nhược kiến đại hà, đương nguyện chúng sanh, đắc dự pháp lưu, nhập Phật trí hải. Nhược kiến kiều đạo, đương nguyện chúng sanh, quảng độ nhất thiết, do như kiều lương.
Thấy dòng sông lớn, nên nguyện chúng sanh, được theo dòng Pháp, vào biển trí Phật. Nhìn thấy cầu đường, nên nguyện chúng sanh, hóa độ tất cả, in như cầu cống.
(39) Dục Phật (tắm tượng Phật)
Ngã kim quán dục chư Như Lai, tịnh trí trang nghiêm công đức tụ, ngũ trược chúng sanh linh ly cấu, đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân.
Nay con rưới tắm thân Như Lai, khối công đức phước trí trang nghiêm, cầu nguyện chúng sanh hết dơ bẩn, cùng được pháp thân của Như Lai.
(40) Tán Phật (tán dương Phật)
Tán Phật tướng hảo, đương nguyện chúng sanh, thành tựu Phật thân, chứng vô tướng pháp. Án mâu ni, tam mâu ni, tát phạ hạ.
Tán dương tướng Phật, nên nguyện chúng sanh, thành tựu thân Phật, chứng pháp vô tướng. Án mâu ni, tam mâu ni, tát phạ hạ.
(41) Nhiễu tháp (nhiễu quanh tháp Phật)
Hữu nhiễu ư tháp, đương nguyện chúng sanh, sở hành vô nghịch, thành nhất thiết trí. Nam mô tam mãn đa một đà nẩm, án đỗ ba đỗ ba sa bà ha (3 lần).
Nhiễu tháp chiều phải, nên nguyện chúng sanh, làm không mâu thuẫn, thành trí toàn giác. Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, án đỗ ba đỗ ba sa bà ha (3 lần).
(42) Khán bịnh (chăm sóc bịnh nhân)
Kiến tật bịnh nhân, đương nguyện chúng sanh, tri thân không tịch, ly quai tránh pháp. Án thất rị đa, thất rị đa, quân tra rị sa phạ hạ (3 lần).
Thấy người bịnh tật, nên nguyện chúng sanh, biết thân vốn không, không mọi tranh cãi. Án thất rị đa, thất rị đa, quân tra rị sa phạ hạ (3 lần).
(43) Thế phát (cắt tóc)
Thế trừ tu phát, đương nguyện chúng sanh, viễn ly phiền não, cứu cánh tịch diệt. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà da, sa bà ha (3 lần).
Cạo bỏ râu tóc, nên nguyện chúng sanh, bỏ cả phiền não, tuyệt đối thanh tịnh. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà da, sa bà ha (3 lần).
(44) Mộc dục (tắm gội)
Tẩy dục thân thể, đương nguyện chúng sanh, thân tâm vô cấu, nội ngoại quang khiết. Án bạt chiết ra não ca tra sa ha (3 lần).
Tắm rửa thân thể, nên nguyện chúng sanh, thân tâm hết dơ, trong ngoài sáng sủa. Án bạt chiết ra não ca tra sa ha (3 lần).
(45) Tẩy túc (rửa chân)
Nhược tẩy túc thời, đương nguyện chúng sanh, cụ thần túc lực, sở hành vô ngại. Án lam sa ha (3 lần).
Trong lúc rửa chân, nên nguyện chúng sanh, đủ thần túc lực, phi hành tự tại. Án lam sa ha (3 lần).
(46) Sa di thập giới tướng (10 giới tướng Sa di)
Nhất viết bất sát sanh; nhị viết bất đạo; tam viết bất dâm; tứ viết bất vọng ngữ; ngũ viết bất ẩm tửu; lục viết bất trước hương hoa man, bất hương đồ thân; thất viết bất ca vũ xướng kỹ cập cố vãng quan thính; bát viết bất tọa cao quảng đại sàng; cửu viết bất phi thời thực; thập viết bất tróc trì sanh tượng kim ngân bảo vật.
Một là không được sát sanh; hai là không được trộm cướp; ba là không được dâm dục; bốn là không được nói dối; năm là không được uống rượu; sáu là không được mang vòng hoa thơm, hay dùng hương thơm xoa mình; bảy là không được ca, vũ, hòa tấu, biểu diễn, hay cố ý đi xem, nghe; tám là không được ngồi giường cao và rộng lớn; chín là không được ăn phi thời; mười là không được nắm giữ sanh tượng (vàng bạc) bảo vật.
(47) Sa di ưng cụ ngũ đức, ưng tri thập số (Sa di phải đủ 5 đức, phải biết 10 pháp số)
Phước điền kinh vân, Sa di ưng tri ngũ đức: nhất giả phát tâm xuất gia, hoài bội đạo cố; nhị giả hủy kỳ hình hảo, ứng pháp phục cố; tam giả cát ái từ thân, vô thích mạc cố; tứ giả ủy khí thân mạng, tôn sùng đạo cố; ngũ giả chí cầu đại thừa, vị độ nhân cố.
Kinh Phước điền nói, Sa di phải biết năm đức tính: một là phát tâm xuất gia, vì cảm bội Phật pháp; hai là hủy bỏ hình đẹp, vì thích ứng pháp y; ba là cát ái từ thân, vì không còn thân sơ; bốn là không kể thân mạng, vì tôn sùng Phật pháp; năm là chí cầu đại thừa, vì hóa độ mọi người.
Tăng kỳ luật vân, ưng vị Sa di thuyết thập số: nhất giả nhất thiết chúng sanh giai y ẩm thực, nhị giả danh sắc, tam giả tri tam thọ, tứ giả tứ đế, ngũ giả ngũ ấm, lục giả lục nhập, thất giả thất giác ý, bát giả bát chánh đạo, cửu giả cửu chúng sanh cư, thập giả thập nhất thiết nhập.
Luật Tăng kỳ nói, nên nói cho Sa di về 10 pháp số: một, là hết thảy chúng sanh đều nhờ ăn uống; hai, là danh sắc; ba, là 3 thọ; bốn, là 4 đế; năm, là 5 ấm; sáu, là 6 nhập; bảy, là 7 giác ý; tám, là 8 chánh đạo; chín, là 9 nơi chúng sanh ở; mười, là 10 nhất thiết nhập.
(48) Sa di ni thập giới tướng (10 giới tướng Sa di ni)
(Nguyên chú.- Đồng với phần trên, tức 10 giới tướng Sa di, nên không kê lại).
(49) Thức xoa ma na giới tướng (giới tướng Thức xoa ma na)
Nhất viết bất dâm, nhị viết bất đạo, tam viết bất sát, tứ viết bất vọng ngữ, ngũ viết bất phi thời thực, lục viết bất ẩm tửu.
Một là không được dâm dục, hai là không được trộm cướp, ba là không được sát sanh, bốn là không được nói dối, năm là không được ăn phi thời, sáu là không được uống rượu.
(50) Ưu bà tắc giới tướng (giới tướng Ưu bà tắc)
Nhất viết bất sát, nhị viết bất đạo, tam viết bất tà dâm, tứ viết bất vọng ngữ, ngũ viết bất ẩm tửu.
Một là không được sát sanh, hai là không được trộm cướp, bà là không được tà dâm, bốn là không được nói dối, năm là không được uống rượu.
(51) Bát quan trai pháp giới tướng (giới tướng Bát quan trai)
Nhất bất sát; nhị bất đạo; tam bất dâm; tứ bất vọng ngữ; ngũ bất ẩm tửu; lục ly hoa hương anh lạc, hương du đồ thân; thất ly cao thắng đại sàng, cập tác xướng kỹ nhạc, cố vãng quan thính; bát ly phi thời thực.
Một, không được sát sanh; hai, không được trộm cướp; ba, không được dâm dục; bốn, không được nói dối; năm, không được uống rượu; sáu, từ bỏ hoa, hương, chuỗi ngọc và dầu thơm xoa mình; bảy, từ bỏ giường cao, hơn và lớn, từ bỏ sự tự hát xướng, biểu diễn, hòa nhạc, hay cố đi xem, nghe; tám, từ bỏ sự ăn phi thời.

4/ Quy Sơn Cảnh Sách Văn
(Bài Văn Cảnh Sách Của Ngài Quy Sơn)
(Đề này còn viết "Qui sơn Đại viên thiền sư cảnh sách", nghĩa: Bài văn Cảnh sách của Đại viên thiền sư ở núi Quy sơn.)
(1) Phù nghiệp hệ thọ thân, vị miễn hình lụy. Bẩm phụ mẫu chi di thể, giả chúng duyên nhi cọng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vị bội.
Vì nghiệp lực kết buộc mà có thân thể, thì chưa ai thoát khỏi cái lụy của hình hài. Nên bẩm thụ thể chất tiết ra của cha mẹ, vay mượn những yếu tố tương quan mà hợp thành. Tuy được bốn thứ đại chủng hỗ trợ, nhưng chính bốn thứ này lại luôn luôn đối nghịch lẫn nhau.
(2) Vô thường lão bịnh bất dữ nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá?
Do đó mà vô thường già bịnh không hẹn với ai cả. Sớm còn tối mất, trong một sát na là qua đời khác. Khác nào sương mùa xuân, móc sáng sớm, chốc lát đã không; cây bên bờ, dây trong giếng, đâu được lâu bền. Như ý nghĩ này nối tiếp ý nghĩ khác, chuyển biến cực kỳ mau chóng, nên trong một sát na, chuyển hơi thở đã là đời sau. Như vậy tại sao vẫn an nhiên để đời mình trôi đi một cách vô ích?
(3) Phụ mẫu bất cung cam chỉ, lục thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế tự, miến ly hương đảng, thế phát bẩm sư. Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tránh chi đức, huýnh thoát trần thế, ký kỳ xuất ly.
Đối với cha mẹ thì không cung phụng ngọt ngon, đối với thân quyến cố nhiên rời bỏ xa cách, đối với đất nước không có khả năng bình trị, đối với gia tộc bỏ hết nghĩa vụ thừa kế, xa làng bỏ xóm, cắt tóc, bẩm thụ Phật pháp với bổn sư. Như vậy lẽ đáng trong thì siêng về công phu khắc niệm, ngoài thì bủa ra đức tính hòa bình, xa hẳn trần tục, kỳ vọng giải thoát.
(4) Hà nãi tài đăng giới phẩm, tiện ngôn ngã thị Tỳ kheo. Đàn việt sở tu, khiết dụng thường trú, bất giải thỗn tư lai xứ, vị ngôn pháp nhĩ hiệp cúng. Khiết liễu tụ đầu huyên huyên, đãn thuyết nhân gian tạp thoại. Nhiên tắc nhất kỳ sấn lạc, bất tri lạc thị khổ nhân. Nẵng kiếp tuẫn trần, vị thường phản tỉnh. Thời quang yểm một, tuế nguyệt sa đà, thọ dụng ân phồn, thí lợi nùng hậu, động kinh niên tải, bất nghĩ khí ly. Tích tụ tư đa, bảo trì huyễn chất. Đạo sư hữu sắc, giới húc Tỳ kheo, tiến đạo nghiêm thân, tam thường bất túc. Nhân đa ư thử đam vị bất hưu, nhật vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ. Hậu học vị văn chỉ thú, ưng tu bác vấn tiên tri, tương vị xuất gia quí cầu y thực.
Sao lại mới bước lên phẩm bậc của giới pháp, mà đã tự thị ta đây là vị Tỳ kheo. Dùng của thí chủ, ăn của thường trú, không biết xét kỹ vì sao mà có của ấy, lại bảo rằng lẽ tự nhiên là phải hiến cúng. Ăn rồi, xúm đầu huyên náo, chỉ nói toàn chuyện tạp của thế gian. Nhưng một thì thừa dịp vui thích, mà không biết chính cái vui ấy là nguyên nhân của sự thống khổ. Bao kiếp xưa kia, đem thân theo trần cảnh, chưa từng phản tỉnh. Thì giờ mất mác, năm tháng lần lữa, hưởng dụng càng nhiều, thí lợi càng lắm, hết năm này qua năm khác mà không biết nghĩ đến sự rời bỏ. Chất chứa càng nhiều cũng chỉ bảo trì xác huyễn mà thôi. Đức Đạo sư có huấn dụ, khuyên dạy các vị Tỳ kheo, hãy tiến bộ đạo nghiệp mà trang hoàng cơ thể, còn ăn, mặc, và ngủ, cả ba thứ ấy không lúc nào nên hưởng dụng sung túc. Nhưng con người đa số đối với ba thứ ấy đam mê không ngừng, đến nỗi ngày qua tháng lại, vụt cái bạc đầu. Nên hậu học chưa nghe tôn chỉ của Phật pháp thì phải học hỏi sâu rộng với các vị tiên giác, sao lại toan bảo xuất gia quí hồ cơm áo.
(5) Phật tiên chế luật, khải sáng phát mông. Qũy tắc uy nghi tịnh như băng tuyết. Chỉ trì tác phạm thúc liễm sơ tâm, vi tế điều chương cách chư ổi tệ. Tỳ ni pháp tịch tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa khởi năng chân biệt. Khả tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thác hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ.
Đức Phật trước tiên thiết chế giới luật là để bắt đầu mở mang cho sự ngu muội. Phép tắc uy nghi sạch như băng tuyết. Đình chỉ là giữ, hành động là phạm, nguyên tắc ấy kềm thúc sơ tâm; điều mục đầy đủ, chương tiết minh bạch, giới pháp này đổi bỏ tồi tệ. Pháp tịch giảng dạy Luật tạng mà chưa hề học hỏi và thân cận, thì đối với Thượng thừa là giáo lý liễu nghĩa, làm sao có khả năng cứu xét rành mạch. Nên thật đáng đau tiếc là để một đời trôi đi một cách trống rỗng, sau này hối hận cũng khó mà đuổi kịp. Giáo lý chưa từng để dạ thì diệu pháp không nhân đâu mà khế ngộ.
(6) Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc cao tâm, bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo, vị am pháp luật, tập liễm toàn vô. Hoặc đại ngữ cao thanh, xuất ngôn vô độ. Bất kính thượng trung hạ tọa, Bà la môn tụ hội vô thù. Oản bát tác thanh, thực tất tiên khởi. Khứ tựu quai giác, tăng thể toàn vô; khởi tọa chung chư, động tha tâm niệm. Bất tồn ta ta qũy tắc, tiểu tiểu uy nghi, tương hà thúc liễm hậu côn, tân học vô nhân phỏng hiệu.
Cập kỳ đến lúc tuổi đời đã cao, tuổi hạ cũng lớn, nhưng bụng thì rỗng, lòng lại cao, bởi vốn không chịu thân cận thiện hữu nên chỉ biết xấc láo ngạo ngược, chưa hiểu thành thuộc giáo pháp và giới luật nên sự tự chế ngự hoàn toàn không có. Lời to, tiếng lớn, nói năng vô phép. Không kính thượng tọa, trung tọa, hạ tọa, ngồi với nhau không khác gì sự tụ họp của các đạo sĩ Bà la môn. Khua bát ra tiếng, ăn rồi dậy trước. Đi ở trái phép nên bản chất tăng sĩ mất hẳn, đứng ngồi quàng hoảng nên làm động tâm niệm của kẻ khác. Phép tắc ít nhất cũng không giữ, uy nghi nhỏ nhất cũng không còn, thì đưa cái gì ra để kềm thúc hậu bối, nên kẻ sơ học không biết do đâu mà mô phỏng.
(7) Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn tăng. Vị văn Phật giáo hành trì, nhất hướng tình tồn thô tháo. Như tư chi kiến cái vị sơ tâm dung đọa, thao thiết nhân tuần, nhẫm nhiễm nhân gian, toại thành sơ dã. Bất giác lủng chủng lão hủ, xúc sự diện tường. Hậu học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn. Túng hữu đàm thuyết, bất thiệp điển chương. Hoặc bị khinh ngôn, tiện trách hậu sinh vô lễ, sân tâm phẫn khởi, ngôn ngữ cai nhân.
Vậy mà có ai mới cảnh giác cho thì liền bảo ngay rằng ta đây là tăng sĩ rừng núi. Quả là kẻ chưa bao giờ nghe đến sự hành trì của Phật huấn dụ, nên chỉ có một chiều hướng là tánh tình vẫn còn y nguyên. Cung cách như vậy là vì sơ tâm biếng nhác, nên ham muốn xấu xa y như thói cũ, dần dà theo đời, hóa thành quê kệch. Thế rồi bất giác mà lóng cóng già yếu, nhưng gặp việc thì như đối diện với tường vách. Hậu học thưa hỏi thì không có lời tiếng chi để hướng dẫn. Có nói cũng không liên hệ gì với kinh điển. Và bị khinh thì bảo hậu sinh vô lễ, sân tâm nỗi giận, lời tiếng át người.
(8) Nhất triêu ngọa tật tại sàng, chúng khổ oanh triền bức bách, hiểu tịch tư thỗn, tâm lý hồi hoàng. Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng. Tùng tư thỉ tri hối quá, lâm khát quật tỉnh hề vi. Tự hận tảo bất dự tu, niên vãn đa chư quá cựu, lâm hành huy hoắc, phạ bố chương hoàng. Hộc xuyên tước phi, thức tâm tùy nghiệp. Như nhân phụ trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy. Vô thường sát quỷ niệm niệm bất đình, mạng bất khả diên, thời bất khả đãi. Nhân thiên tam hữu ưng vị miễn chi, như thị thọ thân phi luận kiếp số.
Một mai bịnh nằm trên giường thì mọi thứ đau đớn bao vây, xiết buộc, bức bách, sớm tối lo nghĩ, trong lòng khiếp sợ, đường trước man mác, chưa biết đi về chỗ nào. Bấy giờ mới biết hối hận, là sắp chết khát mới đào giếng, thì đào mà làm gì. Chỉ còn tự giận lấy mình sớm không dự bị tu tập, tuổi về chiều thì lắm điều tội lỗi, nên khi sắp đi khỏi cuộc đời thì sự sống tan rã thật mau chóng, lòng càng khiếp sợ hãi hùng. Rồi lụa thủng chim bay, tâm thức phải tùy theo nghiệp lực. Như kẻ mắc nợ thì ai mạnh kéo trước, tâm thức lắm thứ ác nghiệp thì chỗ nào nặng hơn là phải rơi trước vào đó. Nên quỉ sứ vô thường sát nhân, ý tưởng này nối tiếp ý tưởng khác, tác hại không ngừng. Sinh mạng không thể kéo dài, thì giờ không hề chờ đợi. Rồi ba cõi luân hồi chưa thể thoát khỏi, và thọ thân như vậy khó nói cho hết số lượng của thì gian lâu dài.
(9) Cảm thương thán nhạ, ai tai thiết tâm, khởi khả giam ngôn, đệ tương cảnh sách. Sở hận đồng sanh tượng quý, khứ Thánh thời diêu, Phật pháp sanh sơ, nhân đa giải đãi, lược thân quản kiến dĩ hiểu hậu lai. Nhược bất quyên căng, thành nan luân hoán.
Cảm thương than thở, đau đớn như cắt đứt tim gan, làm sao có thể phong gói lời nói, nên phải cảnh giác để sách tiến cho nhau. Điều đáng tủi hận là chúng ta cùng sinh vào thì gian cuối cùng của thời kỳ Phật pháp tương tự, cách xa thời đại của Phật, Phật pháp lơ thơ, lòng người đa số biếng nhác, nên phải trình bày sơ lược cái thấy chỉ như ống dòm trời, để khuyên bảo những người hậu học. Nếu không loại bỏ tính nết kiêu căng, thì quả thật khó mà thay đổi cho nhau.
(10) Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư triêm tín thí, tích niên hành xứ thốn bộ bất di, hoảng hốt nhất sanh, tương hà bằng thị. Huống nãi đường đường tăng tướng, dung mạo khả quan, giai thị túc thực thiện căn cảm tư dị báo, tiện nghĩ đoan nhiên củng thủ, bất quí thốn âm. Sự nghiệp bất cần, công quả vô nhân khắc tựu, khởi khả nhất sanh không quá, ức diệc lại nghiệp vô tì.
Người xuất gia là cất bước thì muốn vượt tới phương trời cao rộng, tâm tính và hình dung khác hẳn thế tục, tiếp nối một cách rạng rỡ dòng giống của Phật, làm cho quân đội của ma phải rúng động khuất phục, với mục đích báo đáp bốn ân, cứu vớt ba cõi. Không như vậy thì chỉ là kẻ lạm xen vào hàng ngũ tăng sĩ, lời nói và việc làm trống rỗng, sơ suất, hưởng dụng một cách vô ích cúng phẩm của tín đồ, đường đi năm cũ thì một tấc một bước cũng không đổi dời, quàng hoảng suốt cả một đời thì còn lấy gì mà nương tựa và cậy nhờ? Huống chi tăng tướng đường hoàng, dung mạo khả quan, toàn do thiện căn đời trước gieo trồng mới có được cái quả báo đặc biệt ấy, vậy mà chỉ nghĩ đến việc ngồi thẳng, khoanh tay, chứ không biết quí trọng từng tấc bóng của thì giờ. Nhưng đạo nghiệp mà không chịu nỗ lực thực hành thì đạo quả sẽ không có nhân tố thành tựu. Như vậy đâu phải chỉ một đời này qua đi một cách vô ích, mà mọi việc trong những đời sau cũng không được bổ ích gì.
(11) Từ thân quyết chí phi tri, ý dục đẳng siêu hà sở, hiểu tịch tư thỗn, khởi khả thiên diên quá thời. Tâm kỳ Phật pháp đống lương, dụng tác hậu lai qui cảnh, thường dĩ như thử, vị năng thiểu phần tương ưng.
Giã từ song thân, quả quyết chí khí, khoác mặc pháp y, là ý muốn vượt lên cho ngang đến chỗ nào nữa kia: sớm tối suy nghĩ như vậy thì đâu có thể chơi đùa cho qua mất thì giờ. Trong lòng tự kỳ hẹn cho mình phải làm trụ cột của Phập pháp, làm gương mẫu cho tương lai: thường xuyên tự nguyện như vậy mà chưa hẳn đã phù hợp phần nào với sự xuất gia.
(12) Xuất ngôn tu thiệp ư điển chương, đàm thuyết nãi bàng ư kê cổ. Hình nghi đĩnh đặc, ý khí cao nhàn.
Nói thì phải liên hệ với kinh điển, bàn thì phải dựa vào sự kê cứu về xưa. Hình dáng đĩnh đạc, chí khí cao nhã.
(13) Viễn hành yếu giả lương bằng, sác sác thanh ư nhĩ mục, trú chỉ tất tu trạch bạn, thời thời văn ư vị văn. Cố vân, sanh ngã giả phụ mẫu, thành ngã giả bằng hữu. Thân phụ thiện giả, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận; hiệp tập ác giả, trưởng ác tri kiến, hiểu tịch tạo ác, tức mục giao báo, một hậu trầm luân, nhất thất nhân thân, vạn kiếp bất phục.
Đi xa thì phải nhờ bạn tốt để luôn luôn lọc sạch tai mắt, trú ở thì cần chọn bạn hiền để thường thường nghe điều chưa nghe. Nên ngạn ngữ đã nói, sinh ta là cha mẹ, tác thành ta là bạn bè. Gần gũi người hiền thì như đi trong sương móc, tuy không ướt áo mà lúc nào cũng thấm đượm; quen thân kẻ ác thì lớn thêm kiến thức độc ác, sớm tối làm ác, ác báo đã bị ngay trước mắt mà chết rồi lại phải chìm đắm, làm cho thân người một khi mất đi, muôn kiếp vẫn khó mà khôi phục.
(14) Trung ngôn nghịch nhĩ, khởi bất minh tâm giả tai? Tiện năng tháo tâm dục đức, hối tích thao danh, uẩn tố tinh thần, huyên hiêu chỉ tuyệt.
Lời nói ngay thẳng mới trái nghịch thính giác, như thế làm sao không ghi khắc vào lòng dạ? Mà như thế thì tất nhiên có thể rửa tâm, nuôi đức, ẩn dấu, vùi tên, tập trung tinh thần, đình chỉ ồn náo.
(15) Nhược dục tham thiền học đạo, đốn siêu phương tiện chi môn, tâm khế huyền tân, nghiên cơ tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên, bác vấn tiên tri, thân cận thiện hữu; thử tông nan đắc kỳ diệu, thiết tu tử tế dụng tâm, khả trung đốn ngộ chánh nhân, tiện thị xuất trần giai tiệm. Thử tắc phá tam giới nhị thập ngũ hữu, nội ngoại chư pháp tận tri bất thật, tùng tâm biến khởi, tất thị giả danh; bất dụng tương tâm tấu bạc, đãn tình bất phụ vật, vật khởi ngại nhân; nhậm tha pháp tánh châu lưu, mạc đoạn mạc tục, văn thanh kiến sắc cái thị tầm thường, giá biên na biên ứng dụng bất khuyết.
Nếu muốn tham thiền học đạo, vượt bỏ ngay cửa ngõ phương tiện, thì phải tâm hợp huyền tông, cứu xét tinh yếu, quyết trạch thâm áo, khải ngộ chân nguyên, bằng cách tham vấn sâu rộng với liệt vị tiên giác, gần gũi thân thiết với các bậc thiện tri thức. Thiền tông như thế này thiệt khó mà nắm được chỗ nhiệm mầu của nó, nên phải khẩn thiết vận dụng cái tâm một cách tinh tế và chín chắn, mới ngay trong khả năng này mà đốn ngộ chánh nhân, mới làm thềm bậc tiến dần trong sự siêu thoát phiền não. Và như thế là phá hủy nhân tố hai mươi lăm hữu trong lĩnh vực ba cõi, các pháp thân tâm vũ trụ đều biết không thật, duy tâm biến hiện, toàn thị giả danh. Đừng nên đem tâm ghé họp: tâm không ghé họp với cảnh thì cảnh đâu chướng ngại cho tâm. Mặc cho pháp tánh lưu lộ toàn diện, đừng cắt đứt mà cũng đừng nối tiếp; thấy sắc nghe tiếng quả thực bình thường thì bên nay bên kia ứng dụng đầy đủ.
(16) Như tư hành chỉ, thật bất uổng phi pháp phục, diệc nãi thù báo tứ ân, bạt tế tam hữu. Sanh sanh nhược năng bất thoái, Phật giai quyết định khả kỳ. Vãng lai tam giới chi tân, xuất một vị tha tác tắc.
Sống mà động cũng như tĩnh đều được như vậy mới thật không khoác mặc pháp y một cách uổng phí, cũng tức là báo đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Nếu đời đời không thoái chuyển thì quả vị Phật đà quyết chắc có thể kỳ vọng, và là người khách qua lại ba cõi nên ra vào đều làm khuôn phép cho người.
(17) Thử chi nhất học tối huyền tối diệu. Đãn biện khẳng tâm, tất bất tương trám.
Thiền học như thế này cực kỳ huyền diệu. Chỉ lo cho đủ sự "khẳng tâm", đoan chắc không lừa gạt.
(18) Nhược hữu trung lưu chi sĩ, vị năng đốn siêu, thả ư giáo pháp lưu tâm, ôn tầm bối diệp, tinh sưu nghĩa lý, truyền xướng phu dương, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. Thời quang diệc bất hư khí, tất tu dĩ thử phù trì. Trú chỉ uy nghi, tiện thị Tăng trung pháp khí. Khởi bất kiến ỷ tùng chi cát, thượng túng thiên tầm: phụ thác thắng nhân phương năng quảng ích. Khẩn tu trai giới, mạc man khuy du. Thế thế sanh sanh thù diệu nhân quả.
Những người trung bình, chưa thể vượt ngay lên được, thì hãy để cả tâm trí vào giáo pháp, ôn cho thuộc và tìm cho rõ kinh điển, cứu xét một cách tinh tường đối với nghĩa lý, rồi truyền bá phu diễn ra để dắt dẫn tương lai, báo đáp ơn Phật. Thì giờ đừng để uổng phí, bằng cách phải lấy công hạnh trên đây mà hỗ trợ đời mình. Như thế thì động cũng như tĩnh đều có uy nghi, biến mình thành bậc "pháp khí" trong hàng Tăng bảo. Không thấy dây sắn quấn theo cây tùng kia sao, nó cao vót lên đến cả ngàn tầm: phải ký thác đời mình vào nhân tố tối thượng, mới có năng lực tạo được ích lợi rộng lớn. Phải chân thành giữ gìn trai giới, đừng man trá, thiếu sót hay vượt bỏ. Vì chính trai giới là cái nhân tối thượng đem lại cái quả tối thượng trong mọi đời kiếp.
(19) Bất khả đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời, khả tích quang âm, bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nãi cô phụ tứ ân. Tích lũy chuyển thâm, tâm trần dị ủng, xúc đồ thành trệ, nhân sở khinh khi.
Do đó mà không thể tầm thường hết ngày, nhọc nhằn hết buổi, để thì giờ mất đi một cách đáng tiếc mà không chịu cầu lấy sự bước tới và vượt lên. Như vậy là tiêu thụ của tín thí một cách vô ích, mà cũng phụ bạc tất cả bốn ân. Rồi chất chứa sự hệ lụy càng nhiều thì bụi bặm của tâm trí càng dễ làm cho nó bít lấp, nên đụng đâu tắc đó, ai cũng khinh khi.
(20) Cổ vân, bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thoái khuất. Nhược bất như thử, đồ tại tri môn, nhẫm nhiễm nhất sanh, thù vô sở ích.
Phật đã huấn dụ, ai kia đã là đấng trượng phu thì ta đây cũng có thể làm như thế, đừng tự khinh thị mình mà lùi bước và khuất phục. Nếu không như vậy thì chỉ là kẻ ở trong hàng ngũ xuất gia một cách vô ích, dần dà hết cả một đời mà quả thực không có một chút ích lợi nào hết.
(21) Phục vọng hưng quyết liệt chi chí, khai đặc đạt chi hoài, cử thác khán tha thượng lưu, mạc thiện tùy ư dung bỉ. Kim sanh tiện tu quyết đoán, tưởng liệu bất do biệt nhân. Tức ý vong duyên, bất dữ chư trần tác đối, tâm không cảnh tịch, chỉ vị cửu trệ bất thông.
Xin phủ phục mà cầu mong các vị nỗi dậy cái chí khí quyết liệt, mở ra cái hoài bão cao xa, hết thảy mọi sự động tĩnh đều nhìn lên các bậc thượng thặng, đừng tự ý sống theo những thói hư hèn. Nội một đời này mà thôi, phải giải quyết bản thân cho xong, và việc đó là tự mình liệu lấy cho mình, không phải do ai đâu khác. Bằng cách ý thì ngưng, thức thì thoát, không còn tác đối với trần cảnh vì lẽ tâm vốn không, cảnh vốn lặng, chỉ vì bế tắc lâu ngày nên không thấu triệt được mà thôi.
(22) Thục lãm tư văn, thời thời cảnh sách, cưỡng tác chủ tể, mạc tuẫn nhân tình. Nghiệp quả sở khiên, thành nan đào tị; thanh hòa hưởng thuận, hình trực ảnh đoan, nhân quả lịch nhiên, khởi vô ưu cụ. Cố kinh vân, giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong: nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ. Cố tri tam giới hình phạt oanh bán sát nhân, nỗ lực cần tu, mạc không quá nhật.
Hãy đọc kỹ bài văn này để luôn luôn cảnh giác sách tiến, cưỡng lại mà tự làm chủ tể, đừng thí thân theo tánh tình con người của mình. Vì lẽ nghiệp quả lôi kéo thì quả thực khó mà trốn tránh, cũng như tiếng mà hòa thì tiếng vang phải thuận, hình mà ngay thì hình bóng phải thẳng: nhân quả rõ ràng như vậy, không thể không lo sợ. Trong kinh đã nói, giả sử trải qua trăm ngàn đời kiếp đi nữa, cái nghiệp mình đã làm ra vẫn không tiêu mất: một khi nhân duyên gặp nhau đủ mặt thì quả báo của nó mình phải tự chịu lấy. Vì lý do đó mà hãy ý thức ba cõi đều là những hình phạt ràng buộc và giết chết con người, phải nỗ lực mà tinh tiến tu tập, đừng để đời mình đi qua ngày tháng một cách trống rỗng.
(23) Thâm tri quá hoạn, phương nãi tương khuyến hành trì. Nguyện bách kiếp thiên sanh, xứ xứ đồng vi pháp lữ, nãi vi minh viết:
Bởi nhận thức một cách sâu xa và thống thiết mọi sự tội lỗi và tai họa của tội lỗi ấy, nên mới khuyên nhau tu trì. Nguyện rằng trăm kiếp ngàn đời, bất cứ ở đâu, cũng làm "bạn hữu Phật pháp" cho nhau, nên làm bài minh dưới đây:
(24) Huyễn thân mộng trạch,
Không trung vật sắc,
Tiền tế vô cùng,
Hậu tế ninh khắc?
Xuất thử một bỉ,
Thăng trầm bì cực,
Vị miễn tam luân,
Hà thời hưu tức?
Tham luyến thế gian,
Ấm duyên thành chất,
Tùng sanh chí lão,
Nhất vô sở đắc.
Căn bản vô minh,
Nhân tư bị hoặc,
Quang âm khả tích,
Sát na bất trắc.
Kim sanh không quá,
Lai thế trất tắc.
Tùng mê chí mê,
Giai nhân lục tặc,
Lục đạo vãng hoàn,
Tam giới bồ bặc.
Thân huyễn nhà mộng,
Vật sắc trong Không,
Khoảng trước không cùng,
Khoảng sau đâu biết?
Thoát đây chìm kia,
Lên xuống cực nhọc,
Chưa khỏi ba luân,
Bao giờ ngừng được?
Tham luyến thế gian,
Ấm duyên thành chất,
Từ sanh đến già,
Không được gì cả.
Căn bản vô minh,
Vì nó sai lầm,
Thì giờ đáng tiếc,
Phút chốc khó lường.
Đời này trôi qua,
Kiếp sau bế tắc;
Từ mê đến mê,
Toàn vì lục tặc,
Qua lại sáu đường,
Lăn lóc ba cõi.
(25) Tảo phóng minh sư,
Thân cận cao đức,
Quyết trạch thân tâm,
Khử kỳ kinh cước.
Thế tự phù hư,
Chúng duyên khởi bức,
Nghiên cùng pháp lý,
Dĩ ngộ vi tắc.
Tâm cảnh câu quyên,
Mạc ký mạc ức,
Lục căn di nhiên,
Hành trú tịch mặc.
Nhất tâm bất sanh,
Vạn pháp câu tức.
Sớm hỏi minh sư,
Thân gần cao đức,
Quyết trạch thân tâm,
Trừ khử gai góc.
Đời tự giả dối,
Cảnh nào bức được,
Xét cùng pháp tánh,
Chứng ngộ mới thôi.
Tâm cảnh siêu thoát,
Vượt cả nhớ quên,
Sáu căn an nhiên,
Động tĩnh vắng lặng:
Nhất tâm bất sanh,
Vạn pháp thanh tịnh.
5/ Sa di Luật Nghi Yếu Lược
(Bản Yếu Lược Về Giới Luật Và Uy Nghi Của Sa di)

Bồ tát giới đệ tử, Vân thê tự, Sa môn Châu hoằng tập (Châu hoằng, vị Sa môn ở chùa Vân thê, đệ tử thọ Bồ tát giới, biên tập)
(1) Phạn ngữ Sa di, thử vân tức từ, vị tức ác hành từ, tức thế nhiễm nhi từ tế chúng sanh dã. Diệc vân cần sách, diệc vân cầu tịch. Luật nghi giả, thập giới luật chư uy nghi dã.
Phạn tự "Sa di", xứ này dịch nghĩa tức từ, là đình chỉ việc ác, thi hành từ bi: đình chỉ những sự ô nhiễm của thế tục mà từ bi tế độ chúng sanh. Cũng dịch cần sách, cũng dịch cầu tịch. Còn "luật nghi" là mười giới luật và các uy nghi.
Thượng Thiên: Giới Luật Môn
(Chương Trước: Phần Giới Luật)
(2) Phật chế, xuất gia giả ngũ hạ dĩ tiền tinh chuyên giới luật, ngũ hạ dĩ hậu phương nãi thính giáo tham thiền. Thị cố Sa di thế lạc, tiên thọ thập giới, thứ tắc đăng đàn thọ cụ. Kim danh vi Sa di, nhi bổn sở thọ giới, ngu giả mang hồ bất tri, cuồng giả hốt nhi bất học, tiện nghĩ liệp đẳng, võng ý cao viễn, diệc khả khái hỷ. Nhân thủ thập giới lược giải sổ ngữ, sử mông học tri sở hướng phương. Hảo tâm xuất gia giả, thiết ý tuân hành, thận vật vi phạm. Nhiên hậu cận vi Tỳ kheo giới chi giai thê, viễn vi bồ tát giới chi căn bản, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, thứ cơ thành tựu thánh đạo, bất phụ xuất gia chi chí hỷ. Nhược nhạo quảng lãm, tự đương duyệt Luật tạng toàn thư. Kỳ thập giới danh xuất Sa di thập giới kinh, Phật sắc Xá Lợi Phất vị La Hầu La thuyết.
Phật qui định, người xuất gia 5 hạ về trước phải chuyên học và tinh tường về giới luật, 5 hạ về sau mới học hỏi giáo lý, tham cứu thiền học. Thế nên các vị Sa di xuống tóc rồi, trước hết phải lãnh thọ 10 giới, kế đó mới bước lên giới đàn lãnh thọ cụ túc giới. Ngày nay, gọi là Sa di mà đối với giới luật của mình lãnh thọ, người ngu thì mờ mịt không biết, kẻ cuồng thì xao lãng không học, liền nghĩ vượt bậc, mơ mòng cao xa, thật đáng bùi ngùi. Vì vậy mà tôi đem 10 giới lược giải vài lời, để người sơ học biết phương trời mà họ phải hướng tới. Những người xuất gia với tâm chí tốt, hãy thiết ý tuân hành, thận trọng đừng để vi phạm. Như vậy mới gần thì làm thềm làm thang cho Tỳ kheo giới, xa thì làm rễ làm gốc cho bồ tát giới. Rồi nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, ngõ hầu thành tựu thánh đạo, không phụ chí hướng xuất gia. Nếu thích xem cho rộng thì nên tự cứu xét toàn văn các sách [nói về Sa di] trong Luật tạng. Danh hiệu 10 giới sau đây xuất từ kinh Sa di thập giới, Phật dạy tôn giả Xá Lợi Phất nói cho tôn giả La Hầu La.
(3) Nhất viết bất sát sanh. Giải viết: Thượng chí chư Phật, thánh nhân, sư tăng, phụ mẫu, hạ chí quyên phi nhuyễn động, vi tế côn trùng, đãn hữu mạng giả bất đắc cố sát, hoặc tự sát, hoặc giáo tha sát, hoặc kiến sát tùy hỷ, quảng như Luật trung, văn phồn bất lục. Kinh tái, đông nguyệt sanh sắt, thủ phóng trúc đồng trung, noãn dĩ miên nhứ, dưỡng dĩ nị vật, khủng kỳ cơ đống nhi tử dã. Nãi chí lự thủy, phú đăng, bất súc miêu ly đẳng, giai từ bi chi đạo dã. Vi loại thượng nhiên, đại giả khả tri hỷ. Kim nhân bất năng như thị hành từ, phục da thương hại, khả hồ? Cố kinh vân, thi ân tế phạp, sử kỳ đắc an, nhược kiến sát giả, đương khởi từ tâm. Y, khả bất giới dư?
Một là không được sát sanh. Giải: Trên đến chư Phật, thánh nhân, sư tăng, cha mẹ, dưới đến quyên phi nhuyễn động, vi tế côn trùng, hễ có sinh mạng thì không được cố giết, bằng cách hoặc tự mình giết, hoặc bảo người giết, hoặc thấy người giết mà mừng theo, nói rộng như trong Luật tạng, vì văn nhiều nên không sao chép ra đây. Kinh ghi, mùa đông hay sinh chấy rận, hãy bắt bỏ trong ống tre, ủ ấm bằng bông, nuôi sống bằng đồ cáu bẩn, là sợ chúng đói lạnh mà chết đi. Cho đến lọc nước, che đèn, không nuôi mèo chồn vân vân, đều là đạo từ bi cả. Đối với loài nhỏ mà còn như thế, thì đối với loài lớn có thể nghiệm biết. Con người thời nay đã không thể thi hành từ bi như vậy, mà lại còn thương tổn, sát hại, như thế được chăng? Nên kinh đã dạy, thi ân cứu giúp, cho chúng được yên, nếu thấy bị giết, nên sinh từ tâm. Như thế không răn giữ được sao?
(4) Nhị viết bất đạo. Giải viết: Kim ngân trọng vật, dĩ chí nhất châm nhất thảo, bất đắc bất dữ nhi thủ. Nhược thường trú vật, nhược tín thí vật, nhược tăng chúng vật, nhược quan vật, dân vật, nhất thiết vật, hoặc đoạt thủ, hoặc thiết thủ, hoặc trá thủ, nãi chí thâu thuế mạo độ đẳng, giai vi thâu đạo. Kinh tái, nhất Sa di đạo thường trú quả thất mai, nhất Sa di đạo chúng tăng bính sổ phiên, nhất Sa di đạo chúng tăng thạch mật thiểu phần, câu đọa địa ngục. Cố kinh vân, ninh tựu đoạn thủ, bất thủ phi tài. Y, khả bất giới dư?
Hai là không được trộm cướp. Giải: Từ vật quí trọng như vàng bạc, cho đến một cây kim một ngọn cỏ, không được không cho mà lấy. Vật của thường trú, vật của tín thí, vật của tăng chúng, vật của quan, vật của dân, vật của tất cả, mà lấy bằng cách chiếm đoạt, lấy bằng cách trộm cắp, lấy bằng cách lừa gạt, cho đến trốn thuế, gạt đò vân vân, đều là trộm cướp. Kinh ghi, một Sa di trộm trái của thường trú bảy quả, một Sa di trộm bánh của chúng tăng vài cái, một Sa di trộm đường phèn của chúng tăng chút ít, đều rơi vào địa ngục cả. Nên kinh đã dạy, thà là chặt tay, không lấy phi tài. Như thế không răn giữ được sao?
(5) Tam viết bất dâm. Giải viết: Tại gia ngũ giới duy chế tà dâm, xuất gia thập giới toàn đoạn dâm dục. Đãn can phạm thế gian nhất thiết nam nữ, tất danh phá giới. Lăng nghiêm kinh tái, Bảo liên hương Tỳ kheo ni tư hành dâm dục, tự ngôn dâm dục phi sát phi thâu, vô hữu tội báo, toại cảm thân xuất mãnh hỏa, sanh hãm địa ngục. Thế nhân nhân dục sát thân vong gia, xuất tục vi tăng khởi khả cánh phạm? Sanh tử căn bản, dục vi đệ nhất. Cố kinh vân, tuy dâm dật nhi sanh, bất như trinh khiết nhi tử. Y, khả bất giới dư?
Ba là không được dâm dục. Giải: Năm giới tại gia chỉ hạn chế tà dâm, còn mười giới xuất gia thì cấm hẳn dâm dục. Hễ can phạm đến hết thảy nam nữ trong thế gian thì gọi là phá giới cả. Trong kinh Lăng nghiêm ghi, Tỳ kheo ni Bảo liên hương lén làm việc dâm dục, rồi chính mình tuyên ngôn, rằng dâm dục không phải giết thân ai, không phải trộm của ai, nên không có tội báo, do đó cảm ra thân xuất lửa dữ, đang sống mà vùi xuống địa ngục. Thế nhân vì dâm dục mà giết thân, mất nhà, xuất gia làm tăng sĩ há lại còn phạm? Căn bản sinh tử, dục là thứ nhất. Nên kinh đã dạy, dẫu dâm dật mà sống, không bằng trinh khiết mà chết. Như thế không răn giữ được sao?
(6) Tứ viết bất vọng ngữ. Giải viết: Vọng ngữ hữu tứ. Nhất giả vọng ngôn, vị dĩ thị vi phi, dĩ phi vi thị, kiến ngôn bất kiến, bất kiến ngôn kiến, hư vọng bất thật đẳng. Nhị giả ỷ ngữ, vị trang sức phù ngôn mỹ ngữ, diễm khúc tình từ, đạo dục tăng bi, đãng nhân tâm chí đẳng. Tam giả ác khẩu, vị thô ác mạ lị nhân đẳng. Tứ giả lưỡng thiệt, vị hướng thử thuyết bỉ, hướng bỉ thuyết thử, ly gián ân nghĩa, khiêu toa đấu tranh đẳng. Nãi chí tiền dự hậu hủy, diện thị bối phi, chứng nhập nhân tội, phát tuyên nhân đoản, giai vọng ngữ chi loại dã. Nhược phàm phu tự ngôn chứng thánh, như ngôn dĩ đắc Tu đà hoàn quả, Tư đà hàm quả đẳng, danh đại vọng ngữ, kỳ tội cực trọng. Dư vọng ngữ, vị cứu tha cấp nạn, phương tiện quyền xảo, từ bi lợi tế giả, bất phạm. Cổ nhân vị hành kỷ chi yếu, tự bất vọng ngữ thỉ, huống học xuất thế chi đạo hồ? Kinh tái, Sa di khinh tiếu nhất lão Tỳ kheo độc kinh, thanh như cẩu phệ; nhi lão Tỳ kheo giả thị A la hán, nhân giáo Sa di cấp sám, cẩn miễn địa ngục, do đọa cẩu thân. Ác ngôn nhất cú, vi hại chí thử! Cố kinh vân, phù sĩ xử thế, phủ tại khẩu trung, sở dĩ trạm thân, do kỳ ác ngôn. Y, khả bất giới dư?
Bốn là không được nói dối. Giải: Nói dối có bốn. Một, nói dối trá, là phải bảo trái, trái bảo phải, thấy nói không, không nói thấy, dối trá không thật vân vân. Hai, nói thêu dệt, là trau chuốt lời nói phù phiếm, từ ngữ hoa mỹ khúc nhạc diễm lệ, lời ca tình tứ, dắt dẫn dục vọng, tăng thêm sầu bi, làm đãng tâm chí của người vân vân. Ba, nói thô ác, là nói thô tục, độc ác, mắng chửi người vân vân. Bốn, nói hai lưỡi, là đến người này nói người kia, đến người kia nói người này, ly gián ân nghĩa, khêu chọc và xúi bảo cho họ đấu nhau, tranh nhau vân vân. Cho đến trước khen sau chê, mặt phải lưng trái, chứng vào tội người, rêu rao lỗi người, đều thuộc loại vọng ngữ. Nếu phàm phu tự nói chứng được thánh quả, như nói đã được quả Tu đà hoàn, được quả Tư đà hàm vân vân, thì gọi là đại vọng ngữ, tội ấy rất nặng. Ngoài ra, vọng ngữ vì cứu hoạn nạn cấp bách cho kẻ khác, phương tiện quyền biến, từ bi mà ích lợi, cứu giúp, thì không phạm. Cổ nhân có nói, điều thiết yếu của việc sửa mình là bắt đầu từ sự không nói dối, huống chi người học đạo xuất thế? Kinh ghi, một Sa di khinh cười một vị Tỳ kheo già đọc kinh, rằng tiếng như chó sủa. Vị Tỳ kheo ấy là bậc A la hán, nên dạy Sa di cấp tốc sám hối, nhưng chỉ khỏi địa ngục, vẫn còn đọa làm thân chó. Một câu nói thô ác mà làm hại đến như thế đó! Nên kinh đã dạy, con người ở đời, búa nằm trong miệng, vì vậy chém mình, bởi lời nói ác. Như thế không răn giữ được sao?
(7) Ngũ viết bất ẩm tửu. Giải viết: Aẫm tửu giả, vị ẩm nhất thiết năng túy nhân chi tửu. Tây vức tửu hữu đa chủng: cam giá, bồ đào, cập dữ bách hoa, giai khả tạo tửu. Thử phương chỉ hữu mễ tạo. Câu bất khả ẩm. Trừ hữu trọng bịnh, phi tửu mạc liệu giả, bạch chúng phương phục. Vô cố, nhất trích bất khả triêm thần. Nãi chí bất đắc khứu tửu, bất đắc chỉ tửu xá, bất đắc dĩ tửu ấm nhân. Nghi Địch tạo tửu, Vũ nhân thống tuyệt. Trụ tác tửu trì, quốc dĩ diệt vọng. Tăng nhi ẩm tửu, khả sỉ vưu thậm. Tích hữu ư bà tắc nhân phá tửu giới, toại tính dư giới câu phá. Tam thập lục thất, nhất ẩm bị diên, quá phi tiểu hỷ. Tham ẩm chi nhân tử đọa Phí thỉ địa ngục, sanh sanh ngu si, thất trí tuệ chủng, mê hồn cuồng dược liệt ư tì chẫm. Cố kinh vân, ninh ẩm dương đồng, thận vô phạm tửu. Y, khả bất giới dư?
Năm là không được uống rượu. Giải: Uống rượu là uống tất cả thứ rượu có khả năng làm say con người. Tây vức rượu có nhiều thứ: mía, nho, cùng với trăm hoa đều có thể làm rượu. Địa phương này chỉ có rượu làm bằng gạo. Tất cả đều không được uống. Trừ lúc có bịnh nặng, phi rượu không chữa được, thì phải tác bạch tăng chúng mới uống. Vô cớ thì một giọt cũng không được thấm môi. Cho đến không được ngửi rượu, không được dừng ở quán rượu, không được đem rượu cho người uống. Nghi Địch chế rượu, Vũ vương nhân đó đau xót tuyệt bỏ. Trụ vương làm hồ rượu, quốc gia vì thế diệt vong. Tăng sĩ mà còn uống rượu thì càng đáng sỉ nhục hơn nữa. Xưa có ưu bà tắc vì phá giới uống rượu mà luôn các giới khác đều phá. Ba mươi sáu lỗi, một việc uống rượu có đủ tất cả, tội ác không phải nhỏ. Kẻ ham uống rượu thì chết rồi phải đọa vào địa ngục Phân sôi, đời đời ngu si, mất giống trí tuệ, nên rượu là thuốc cuồng làm mê loạn tâm hồn còn dữ hơn cả đá tì, chim chẫm. Nên kinh đã dạy, thà uống nước đồng nấu chảy, thận trọng đừng phạm vào sự uống rượu. Như thế không răn giữ được sao?
(8) Lục viết bất trước hương hoa man, bất hương đồ thân. Giải viết: Hoa man giả, Tây vức nhân quán hoa tác man, dĩ nghiêm kỳ thủ; thử độ tắc tăng, nhung, kim, bảo, chế sức cân quan chi loại thị dã. Hương đồ thân giả, Tây vức quí nhân dụng danh hương vi mạt, linh thanh y ma thân; thử độ tắc bội hương, huân hương, chi phấn chi loại thị dã. Xuất gia chi nhân khởi nghi dụng thử. Phật chế tam y câu dụng thô sơ ma bố, thú mao tàm khẩu hại vật thương từ, phi sở ưng dã. Trừ niên cập thất thập, suy đồi chi thậm, phi bạch bất noãn giả, hoặc khả vi chi, dư câu bất khả. Hạ Vũ ác y, Công tôn bố bị, vương thần chi quí, nghi vi bất vi, khởi đắc đạo nhân phản tham hoa sức. Hoại sắc vi phục, phấn tảo tế hình, cố kỳ nghi hỷ. Cổ hữu cao tăng tam thập niên trước nhất lưỡng hài, huống phàm bối hồ. Y, khả bất giới dư?
Sáu là không được mang vòng hoa thơm hay dùng hương thơm xoa mình. Giải: Vòng hoa là người Tây vức xâu hoa làm vòng để trang sức đầu họ, còn quốc độ này là cái loại dùng lụa, nhung, vàng và các thứ quí báu mà chế tạo hay trang sức khăn mão. Dùng hương thơm xoa mình là kẻ sang ở Tây vức dùng danh hương làm bột, bảo thanh y xát vào mình, còn quốc độ này là cái loại đeo hương, xông hương, sáp và phấn. Người xuất gia đâu có nên dùng những thứ đó. Phật qui định ba pháp y đều dùng toàn vải gai thô sơ, còn lông thú miêÍng tằm thì hại sinh vật, tổn từ bi, không phải những thứ thích hợp với người xuất gia. Trừ tuổi đến bảy mươi, suy đồi quá lắm, phi lụa không ấm thì hoặc có thể dùng được, còn những kẻ khác đều không thể. Vũ vương nhà Hạ chỉ mặc áo xấu, Công tôn Hoằng chỉ dùng áo ngủ bằng vải, sang như đế vương đại thần, đáng dùng mà không dùng, thì người hành đạo đâu được ngược lại, ham phục sức hoa mỹ Nên, lấy hoại sắc làm y phục, lấy phấn tảo che thân hình, vốn là sự thích nghi của người xuất gia. Xưa có vị cao tăng mà ba mươi năm chỉ mang một đôi giày, huống chi hạng phàm phu. Như thế không răn giữ được sao?
(9) Thất viết bất ca vũ xướng kỹ bất vãng quan thính. Giải viết: Ca giả khẩu xuất ca khúc; vũ giả thân vi hý vũ; xướng kỹ giả vị cầm sắt tiêu quản chi loại thị dã; bất đắc tự tác, diệc bất đắc tha nhân tác thời cố vãng quan thính. Cổ hữu tiên nhân, nhân thính nữ ca âm thanh vị diệu, cự thất thần túc. Quan thính chi hại như thị, huống tự tác hồ? Kim thế ngu nhân, nhân Pháp hoa hữu tì bà nao bạt chi cú, tứ học âm nhạc. Nhiên Pháp hoa nãi cúng dường chư Phật, phi tự ngu dã. Kỹ viện tác nhân gian pháp sự đạo tràng, do khả vi chi, kim vị sanh tử xả tục xuất gia, khởi nghi bất tu chánh vụ nhi cầu công kỹ nhạc? Nãi chí vi kỳ, lục bác, đầu trịch, xu bồ đẳng sự, giai loạn đạo tâm, tăng trưởng quá ác. Y, khả bất giới dư?
Bảy là không được ca, vũ, hòa tấu, biểu diễn, hay đi xem nghe. Giải: Ca là miệng hát các khúc ca, vũ là thân múa các điệu vũ, hòa tấu biểu diễn là cái loại đàn cầm đàn sắt ống tiêu ống quản. Không được chính mình tự làm những việc này, mà khi người khác làm, mình cũng không được cố đi xem và nghe. Xưa có tiên nhân vì nghe con gái hát, âm thanh tuyệt diệu, mà thốt nhiên mất liền thần túc. Cái hại xem nghe còn như thế, huống chi tự làm? Ngày nay, những kẻ ngu muội nhân kinh Pháp hoa có câu tì bà nao bạt nên tự ý phóng túng mà học âm nhạc. Nhưng trong kinh Pháp hoa nói, là để hiến cúng chư Phật, không phải tự vui. Do đó, những am viện ứng phó làm đạo tràng pháp sự trong nhân gian thì hoặc có thể làm được, còn nay vì vấn đề sanh tử mà thoát tục xuất gia, thì đâu có thể không tu tập việc chính, lại cầu học tập cho khéo về kỹ nhạc. Cho đến những việc đánh vi kỳ, lục bác, đầu trịch, xu bồ, vân vân, đều rối loạn đạo tâm, thêm lớn tuổi ác. Như thế không răn giữ được sao?
(10) Bát viết bất tọa cao quảng đại sàng. Giải viết: Phật chế thằng sàng cao bất quá Như Lai bát chỉ. Quá thử tức phạm. Nãi chí tất thể điêu khắc, cập sa quyến trướng nhục chi loại, diệc bất nghi dụng. Cổ nhân dụng thảo vi tòa, túc ư thọ hạ; kim hữu sàng tháp diệc ký thắng hỷ, hà cánh cao quảng, túng tứ huyễn khu. Hiếp tôn giả nhất sanh hiếp bất trước tịch, Cao phong Diệu thiền sư tam niên lập nguyện bất triêm sàng đắng, Ngộ đạt thọ trầm hương chi tòa thượng tổn phước nhi chiêu báo. Y, khả bất giới dư?
Tám là không được ngồi giường cao và rộng lớn. Giải: Phật qui định giường giây cao không quá tám ngón tay của Ngài. Quá cỡ ấy thì phạm. Cho đến cái loại sơn vẽ chạm trổ và màn nệm bằng sa lụa cũng không nên dùng. Phật mà dùng cỏ làm đồ ngồi, đêm nghỉ dưới cây; nay ta có giường có chõng cũng đã hơn rồi, sao lại phải cao rộng để phóng túng xác huyễn. Hiếp tôn giả một đời hông không dính chiếu, Cao phong Nguyên diểu thiền sư ba năm lập nguyện không dính giường ghế, Ngộ đạt quốc sư nhận pháp tọa trầm hương còn tổn phước mà rước họa. Như thế không răn giữ được sao?
(11) Cửu viết bất phi thời thực. Giải viết: Phi thời giả, quá nhật ngọ phi Tăng thực chi thời phận dã. Chư thiên tảo thực, Phật ngọ thực, súc sanh ngọ hậu thực, quỉ dạ thực. Tăng nghi học Phật, bất quá ngọ thực. Ngạ quỉ văn oản bát thanh, tắc yết trung hỏa khởi, cố ngọ thực thượng nghi tịch tịnh, huống quá ngọ hồ. Tích hữu cao tăng, văn lân phòng tăng ngọ hậu cử thoán, bất giác thế khấp, bi Phật pháp chi suy tàn dã. Kim nhân thể nhược đa bịnh, dục sác sác thực giả, hoặc bất năng trì thử giới, cố cổ nhân xưng vãn thực vi dược thạch, thủ liệu bịnh chi ý dã. Tất dã tri vi Phật chế sanh đại tàm quí, niệm ngạ quỉ khổ thường hành bi tế, bất đa thực, bất mỹ thực, bất an ý thực, thứ cơ khả nhĩ. Như hoặc bất thiên, đắc tội di trọng. Y, khả bất giới dư?
Chín là không được ăn phi thời. Giải: Phi thời là quá giờ ngọ thì không phải giờ ăn của tăng sĩ. Chư thiên ăn buổi sáng, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, quỉ ăn ban đêm. Tăng nên học Phật, không ăn quá giờ ngọ. Ngạ quỉ nghe tiếng chén bát thì trong cổ họng lửa nỗi lên, nên ăn đúng giờ ngọ mà còn phải yên tịnh, huống quá giờ ngọ ấy. Xưa có vị cao tăng nghe vị tăng sĩ ở phòng bên cạnh, sau giờ ngọ mà thổi bếp, bất giác rơi lụy khóc thầm, buồn nỗi suy tàn của Phật pháp. Con người thời nay, có kẻ mình yếu, nhiều bịnh, muốn ăn luôn luôn, hoặc không thể giữ giới này, nên cổ nhân gọi bữa ăn chiều là thuốc, là lấy cái ý chữa bịnh. Nhưng quyết định phải biết trái với sự qui định của Phật mà phát sanh sự hổ thẹn to lớn, nghĩ nhớ nỗi thống khổ của ngạ quỉ mà thường hành từ bi, không ăn nhiều, không ăn ngon, không ăn một cách yên dạ, mới có thể tạm được. Nếu không thì đắc tội càng nặng. Như thế không răn giữ được sao?
(12) Thập viết bất tróc trì sanh tượng kim ngân bảo vật. Giải viết: Sanh tức kim dã. Tượng, tợ dã; tợ kim giả ngân dã. Vị kim sắc sanh bản tự hoàng; ngân khả nhiễm hoàng, tợ kim dã. Bảo giả thất bảo chi loại dã. Giai trưởng tham tâm, phương phế đạo nghiệp. Cố Phật tại thế thời, Tăng giai khất thực, bất lập yên thoán, y phục phòng thất tất nhậm ngoại duyên, trí kim ngân ư vô dụng chi điểu. Tróc trì thượng cấm, thanh khả tri hỷ. Sừ kim bất cố, thế nho thượng nhiên, Thích tử xưng bần, súc tài hề dụng? Kim nhân bất năng câu hành khất thực, hoặc nhập tòng lâm, hoặc trú am viện, hoặc xuất viễn phương, diệc vị miễn hữu kim ngân chi phí. Tất dã tri vi Phật chế sanh đại tàm quí, niệm tha bần phạp thường hành bố thí, bất doanh cầu, bất súc tích, bất phiến mại, bất dĩ thất bảo trang sức y khí đẳng vật, thứ cơ khả nhĩ. Như hoặc bất nhiên, đắc tội di trọng. Y, khả bất giới dư?
Mười là không được nắm giữ sanh tượng (vàng bạc) bảo vật. Giải: Sanh là vàng. Tượng là tương tự; tương tự với vàng là bạc. Nghĩa là sắc của vàng sanh ra vốn tự vàng, còn bạc có thể nhuộm sắc vàng nên tương tự với vàng. Bảo là cái loại bảy thứ quí báu. Tất cả đều tăng trưởng tham tâm, trở ngại và phế bỏ đạo nghiệp. Nên khi Phật tại thế, tăng sĩ đều khất thực, không lập bếp núc, áo cơm phòng thất đều tùy ngoại duyên, đặt vàng bạc vào vị trí vô dụng. Nắm giữ mà còn cấm thì sự thanh bạch có thể biết được. Bừa nhằm vàng mà không ngoái lại để ngắm, nho sĩ thế gian còn như thế, Thích tử tự xưng bần đạo thì chứa của làm gì? Người xuất gia thời nay không phải ai cũng khất thực, mà hoặc nhập tòng lâm, hoặc ở am viện, hoặc đi phương xa, cũng không khỏi cần đến tiền bạc. Nhưng quyết định phải biết trái với sự qui định của Phật mà phát sanh sự hổ thẹn to lớn, nghĩ nhớ nỗi nghèo thiếu của người khác mà thường hành bố thí, không mưu cầu, không dồn chứa, không buôn bán, không dùng bảy thứ quí báu trang sức những vật y phục, đồ dùng, vân vân, mới có thể tạm được. Nếu không thì đắc tội càng nặng. Như thế không răn giữ được sao?

Hạ Thiên: Uy Nghi Môn
(Chương Sau: Phần Uy Nghi)
(13) Phật chế, Sa di niên mãn nhị thập, dục thọ cụ túc giới thời, nhược vấn, bất năng cụ đối Sa di sự giả, bất ưng dữ cụ túc giới. Đương vân, khanh tác Sa di, nãi bất tri Sa di sở thi hành! Sa môn sự đại nan tác; khanh thả khứ thục học, đương tất văn tri, nãi ưng thọ cụ túc giới. Kim thọ khanh cụ túc giới, nhân vị Phật pháp dị hành, Sa môn dị tác. Cố đương tiên vấn. Dĩ hạ điều tắc, ư Sa di uy nghi chư kinh, cập cổ thanh qui, kim Sa di thành phạm trung tiết xuất. Hựu Tuyên luật sư Hành hộ luật nghi, tuy giới tân học Tỳ kheo, hữu khả thông dụng giả diệc tiết xuất. Lương dĩ mạt pháp nhân tình đa chư giải đãi, văn phồn tắc yểm, do thị san phồn thủ yếu, nhưng phân loại dĩ tiện độc học. Gian hữu vị bị, tùng nghĩa bổ nhập nhất nhị. Kỳ hữu nhạo quảng lãm giả, tự đương kiểm duyệt toàn thư.
Phật qui định, Sa di tuổi đầy hai mươi, khi muốn lãnh thọ cụ túc giới, nếu chất vấn mà người nào không thể phúc đáp đầy đủ về việc Sa di, thì không nên truyền thọ cụ túc giới cho người ấy. Nên bảo, ông làm Sa di mà không biết việc Sa di phải làm, huống chi việc Sa môn là việc lớn, khó làm. Ông hãy đi học cho thuộc, phải nghe và biết đủ cả, mới nên lãnh thọ cụ túc giới. Bây giờ truyền thọ cụ túc giới cho ông thì người ta bảo Phật pháp dễ tu, Sa môn dễ làm. Vì vậy nên phải chất vấn trước. Nhữngđiều tắc dưới đây là trích ra từ các bản kinh nói về uy nghi Sa di, từ bản thanh qui đời xưa và sách Sa di thành phạm đời nay. Tác phẩm Hành bộ luật nghi của Tuyên luật sư tuy để răn bảo các vị Tỳ kheo mới học, nhưng điều nào có thể thông dụng thì cũng trích ra. Vì lòng người thời đại mạt pháp lắm sự biếng nhác, nghe nhiều thì chán, do đó mà tôi lọc bỏ những điều phồn toái, trích lấy những chỗ chính yếu. Nhưng vẫn phân loại để tiện cho việc học đọc. Tựu trung có chỗ nào chưa đủ, tôi theo ý nghĩa mà phụ thêm một vài điều. Ai thích xem cho rộng thì nên tự cứu xét toàn văn các sách [trên đây].

Kính Đại Sa môn Đệ Nhất
(Thứ 1, Kính Đại Sa môn)
(14) Bất đắc hoán đại Sa môn tự. Bất đắc đạo thính đại Sa môn thuyết giới. Bất đắc chuyển hành thuyết đại Sa môn quá. Bất đắc tọa kiến đại Sa môn quá bất khởi, trừ độc kinh thời, bịnh thời, thế phát thời, phạn thời, tác chúng sự thời. Hành hộ vân, ngũ hạ dĩ thượng tức xà lê vị, thập hạ dĩ thượng tức hòa thượng vị. Tuy Tỳ kheo sự, Sa di đương dự tri chi.
Không được gọi tên chữ của đại Sa môn. Không được lén nghe đại Sa môn thuyết giới Không được nói chuyền lầm lỡ của đại Sa môn. Không được ngồi thấy đại Sa môn đi qua mà không đứng dậy, trừ lúc đọc kinh, lúc bịnh, lúc cắt tóc, lúc ăn cơm, lúc làm việc tăng chúng. Hành hộ viết, 5 hạ sắp lên là điển vị xà lê, 10 hạ sắp lên là địa vị hòa thượng. Dầu là việc của Tỳ kheo, Sa di cũng phải biết trước.

Sự Sư Đệ Nhị
(Thứ 2, Thờ Thầy)
(15) Đương tảo khởi. Dục nhập hộ, đương tiên tam đàn chỉ. Nhược hữu quá, hòa thượng a xà lê giáo giới chi, bất đắc hoàn nghịch ngữ. Thị hoà thượng a xà lê đương như thị Phật. Nhược sử xuất bất tịnh khí, bất đắc thóa, bất đắc nộ nhuế. Nhược lễ bái, sư tọa thiền bất ưng tác lễ, sư kinh hành bất ưng tác lễ, sư thực, sư thuyết kinh, sư xơ xỉ, sư tháo dục, sư miên tức đẳng, câu bất ưng tác lễ. Sư bế hộ, bất ưng hộ ngoại tác lễ. Dục nhập hộ tác lễ, ưng đàn chỉ tam biến; sư bất ứng, ưng khứ. Trì sư ẩm thực, giai đương lưỡng thủ bổng. Thực tất, liễm khí đương từ từ. Thị sư, bất đắc đối diện lập, bất đắc cao xứ lập, bất đắc thái viễn lập; đương linh sư tiểu ngữ đắc văn, bất phí tôn lực.
Nên dậy sớm. Muốn vào cửa, trước hết nên đàn chỉ 3 lần. Nếu có lỗi, hòa thượng hay xà lê răn dạy thì không được nói trả, nói nghịch. Chiêm ngưỡng hòa thượng và xà lê, nên như chiêm ngưỡng Phật. Nếu bảo đổ đồ bất tịnh thì không nên nhổ nước miếng, không nên giận tức. Nếu lễ bái thì thầy ngồi thiền không nên làm lễ, thầy kinh hành không nên làm lễ, thầy thọ thực, thầy thuyết kinh, thầy đánh răng, thầy tắm rửa, thầy ngủ nghỉ vân vân, đều không nên làm lễ. Thầy đóng cửa, không nên ở ngoài cửa làm lễ. Muốn vào cửa làm lễ, nên đàn chỉ 3 lần; thầy không trả lời thì nên đi. Cầm đồ uống đồ ăn của thầy đều nên bưng 2 tay. Ăn rồi, dọn đồ thì phải từ từ. Hầu thầy, không được đứng đối diện, không được đứng chỗ cao, không được đứng quá xa; phải đứng sao để thầy nói nhỏ mình nghe được, khỏi phí sức thầy.
(16) Nhược thỉnh vấn Phật pháp nhân duyên, đương chỉnh y lễ bái, hiệp chưởng hồ quị; sư hữu ngữ, trừng tâm đế thính, tư duy thâm nhập. Nhược vấn gia thường sự, bất tu bái quị, đãn đoan lập sư trắc, cứ thật thân bạch. Sư nhược thân tâm quyện, giáo khứ ưng khứ, bất đắc tâm tình bất hỷ, hiện ư nhan sắc. Phàm hữu phạm giới đẳng sự, bất đắc phú tàng, tốc nghệ sư tiền ai khất sám hối. Sư hứa tắc tận tình phát lộ, tinh thành hối cải, hoàn đắc thanh tịnh. Sư ngữ vị liễu, bất đắc ngữ. Bất đắc hý tọa sư tòa, cập ngọa sư sàng, trước sư y mạo đẳng. Vị sư trì đạt thư tín, bất đắc tư tự chiết khán, diệc bất đắc dữ nhân khán. Đáo, bỉ hữu vấn, ưng đáp tắc thật đối, bất ứng đáp tắc thiện từ khước chi. Bỉ lưu, bất đắc tiện trú, đương nhất tâm tư sư vọng qui. Sư đối tân, hoặc lập thường xứ, hoặc ư sư trắc, hoặc ư sư hậu, tất sử nhĩ mục tương tiếp, hầu sư sở tu. Sư tật bịnh, nhất nhất dụng tâm điều trị, phòng thất bị nhục, dược nhĩ chúc thực đẳng. Trì y, thọ lý, tẩy hoán, hồng sái đẳng, cụ ư luật trung, tư bất phồn lục.
Nếu xin hỏi Phật pháp thì phải sửa y, lễ bái, chắp tay, hồ quì; thầy có dạy thì lắng lòng nghe kỹ suy nghĩ vào sâu. Nếu hỏi việc thường của trú xứ thì không cần lạy quì, chỉ đứng ngay thẳng cạnh thầy, cứ thật trình bày. Nếu thầy mệt mỏi cơ thể hay tâm trí, bảo đi thì nên đi, không được lòng dạ không vui, hiện ra sắc mặt. Phàm có những việc phạm giới vân vân, không được che giấu, phải cấp tốc đến trước thầy, thiết tha xin sám hối. Thầy chấp nhận thì tận tình phát lộ, chân thành hối cải, phục hồi thanh tịnh. Thầy nói chưa xong, không được nói. Không được ngồi chơi chỗ ngồi của thầy, nằm chơi giường thầy, dùng chơi áo mão của thầy, vân vân. Vì thầy đi đưa thư, không được tự lén mở coi, cũng không được cho người coi. Đến, người nhận có hỏi, nên trả lời thì trả lời thành thật, không nên trả lời thì khéo từ khước. Họ lưu giữ thì không được ở liền, phải nhất tâm nhớ thầy mong về. Thầy tiếp khách thì hoặc đứng chỗ thường đứng, hoặc đứng cạnh thầy, hoặc đứng sau thầy, phải làm cho tai mắt tiếp nhau, hầu thầy cần dùng. Thầy đau ốm thì nhất nhất chú ý chăm sóc, như phòng thất, chăn nệm, thuốc thang, cháo cơm vân vân. Cầm áo, đưa giày, giặt rửa, sấy phơi, vân vân, thì dạy đủ cả trong Luật, ở đây không chép nhiều.
(17) Phụ:- Phàm thị sư, bất mạng tọa bất cảm tọa, bất vấn bất cảm đối, trừ tự hữu sự dục vấn. Phàm thị lập, bất đắc ỷ bích kháo trác, nghi đoan thân tề túc trắc lập. Dục lễ bái, nhược sư chỉ chi, nghi thuận sư mạng, vật bái. Phàm sư dữ khách đàm luận thiệp đạo thoại, hữu ích thân tâm giả, giai đương ký thủ. Sư hữu sở sử linh, nghi cập thời tác biện, bất đắc vi mạn. Phàm thụy miên, bất đắc tiên sư. Phàm nhân vấn sư húy, đương vân thượng mỗ tự hạ mỗ tự. Phàm đệ tử, đương trạch minh sư, cửu cửu thân cận, bất đắc ly sư thái tảo; như sư thật bất minh, đương biệt cầu lương đạo. Thiết ly sư, đương ức sư hối, bất đắc túng tình tự dụng, tùy thế tục lưu hành bất chánh sự; diệc bất đắc trú thị tỉnh náo xứ, bất đắc trú thần miếu, bất đắc trú dân phòng, bất đắc trú cận ni tự xứ, bất đắc dữ sư các trú nhi hành thế pháp trung nhất thiết ác sự.
Phụ:- Phàm hầu thầy, thầy không bảo ngồi thì không dám ngồi, không hỏi thì không dám thưa, trừ mình có việc muốn hỏi. Phàm đứng hầu thì không được dựa vách, tựa ghế, mà nên mình ngay thẳng, chân tề chỉnh, đứng cạnh thầy. Muốn lễ bái, mà thầy ngăn lại thì nên thuận theo mạng lịnh của thầy, đừng lạy. Phàm thầy cùng khách đàm luận mà lời nói liên hệ Phật pháp, hữu ích thân tâm, thì đều nên nhớ lấy. Thầy có sai khiến gì thì nên kịp thời làm cho xong, không được trái, nhác hay khinh thường. Phàm ngủ nghỉ, không được trước thầy. Phàm ai hỏi tên húy của thầy, nên nói trên chữ x, dưới chữ x. Phàm đệ tử thì phải chọn bậc minh sư, thân cận cho lâu, không được rời thầy quá sớm; nếu thầy quả thật bất minh thì phải tìm riêng vị lương đạo. Giả sử rời thầy thì phải ghi nhớ giáo huấn của thầy, không được buông thả, tự chuyên, tùy theo dòng đời mà làm việc bất chính; cũng không được ở chỗ ồn náo là chợ giếng, không được ở miếu thần, không được ở phòng ốc dân chúng, không được ở chỗ gần chùa ni, không được cùng thầy mỗi người ở một nơi mà làm tất cả việc xấu trong thế gian.

Tùy Sư Xuất Hành Đệ Tam
(Thứ 3, Theo Thầy Đi Ra)
(18) Bất đắc quá lịch nhân gia. Bất đắc chỉ trú đạo biên cọng nhân ngữ. Bất đắc tả hữu cố thị, đương đê đầu tùy sư hậu. Đáo đàn việt gia, đương trú nhất diện, sư giáo tọa ưng tọa. Đáo tha tự viện, sư lễ Phật, hoặc tự lễ, bất đắc thiện tự minh khánh. Nhược sơn hành, đương trì tọa cụ tùy chi. Nhược viễn hành, bất đắc tương ly thái viễn. Nhược độ thủy, đương trì trượng từ thí thiển thâm. Trì bình, huề tích đẳng, cụ như Luật trung, văn phồn bất lục. Phụ: Nhược ngẫu phân hành, ước ư mỗ xứ hội, bất đắc hậu thời. Sư thọ trai, đương thị lập xuất sanh; trai tất, phục thị lập thâu sấn.
Không được ghé qua nhà người khác. Không được dừng ở bên đường cùng người nói chuyêển. Không được ngoái nhìn hai bên, mà nên cúi đầu đi theo sau thầy. Đến nhà đàn việt, nên đứng một bên thầy, thầy dạy ngồi thì nên ngồi. Đến tự viện khác, thầy lạy Phật hoặc mình lạy, đều không được tự ý đánh khánh. Nếu đi núi thì phải cầm tọa cụ theo thầy. Nếu đi xa thì không được rời nhau quá xa. Nếu lội nước thì phải cầm gậy từ từ dò thử cạn sâu. Những việc cầm bình, mang gậy vân vân, dạy đủ trong Luật, văn nhiều nên ở đây không chép. Phụ: Ngẫu nhiên tách nhau mà đi, hẹn ở chỗ nào gặp nhau, thì không được đến sau giờ hẹn. Thầy thọ trai thì phải đứng hầu xuất sanh, thọ trai xong lại phải đứng hầu thâu nhận đồ hiến cúng.

Nhập Chúng Đệ Tứ
(Thứ 4, Nhập Chúng)
(19) Bất đắc tranh tọa xứ. Bất đắc ư tòa thượng diêu tương hô ngữ tiếu. Chúng trung hữu thất nghi, đương ẩn ác dương thiện. Bất đắc phạt lao, hiển kỷ chi công. Phàm tại xứ, thụy bất tại nhân tiền, khởi bất tại nhân hậu. Phàm tẩy diện, bất đắc đa sử thủy. Sát nha thổ thủy, tu đê đầu dẫn thủy hạ, bất đắc phún thủy tiễn nhân. Bất đắc cao thanh tỷ di ẩu thổ. Bất đắc ư điện tháp, cập tịnh thất tịnh địa tịnh thủy trung thế thóa, đương ư tích xứ. Khiết trà thang thời, bất đắc chích thủ ấp nhân. Bất đắc hướng tháp tẩy xỉ, cập hướng hòa thượng, a xà lê đẳng.
Không được tranh chỗ ngồi. Không được trên chỗ ngồi mà gọi vói nhau, nói hay cười. Trong chúng có ai mất uy nghi, nên ẩn ác dương thiện. Không được khoe cái mệt để tỏ cái công của mình. Phàm ở chỗ nào, ngủ không trước người, dậy không sau người. Phàm rửa mặt, không được sử dụng nước nhiều. Đánh răng nhổ nước, phải cúi đầu đưa nước xuống, không được phun nước tạt ướt người. Không được lớn tiếng hỉ mũi, nôn ọe, khạc nhổ. Không được nơi điện tháp, và trong nhà sạch, đất sạch, nước sạch mà hỉ nước mũi, nhổ nước miếng, phải nơi chỗ khuất. Khi uống trà nước, không được dùng một tay còn lại mà xá chào người. Không được xoay về phía tháp mà tẩy răng, hay xoay về phía hòa thượng, xà lê vân vân.
(20) Phàm văn chung thanh, hiệp chưởng mặc niệm vân:
Văn chung thanh,
Phiền não khinh,
Trí tuệ trưởng,
Bồ đề sanh,
Ly địa ngục,
Xuất hỏa khanh,
Nguyện thành Phật,
Độ chúng sanh,
Án già ra đế da sa ha.
Bất đắc đa tiếu, nhược đại tiếu; cập kha khiếm, đương dĩ y tụ yểm khẩu. Bất đắc cấp hành. Bất đắc tương Phật đăng tư tựu kỷ dụng. Nhược nhiên đăng, đương hảo dĩ tráo mật phú, vật linh phi trùng đầu nhập. Cúng Phật hoa, thủ khai viên giả, bất đắc tiên khứu; trừ ủy giả phương cúng tân giả; ủy giả bất đắc khí địa tiễn đạp, nghi trí bình xứ. Bất đắc văn hô bất ứng; phàm hô, câu nghi dĩ niệm Phật ứng chi. Phàm thập di vật, tức đương bạch tri sự tăng.

Phàm nghe tiếng chuông thì chắp tay, niệm thầm như sau:
Nghe tiếng chuông,
Phiền não nhẹ,
Trí tuệ lớn,
Bồ đề sanh,
Thoát địa ngục,
Vượt hầm lửa,
Nguyện thành Phật,
Độ chúng sanh.
Án già ra đế da sa ha.
Không được cười nhiều hoặc cười lớn, và ngáp thì phải lấy tay áo bưng miệng. Không được đi gấp gáp. Không được đem đèn của Phật dùng riêng cho mình. Nếu thắp đèn, phải khéo lấy lồng che kín, đừng để loại phi trùng gieo vào. Hoa cúng Phật thì lấy thứ nở vừa và không được ngửi trước; loại trừ thứ héo mới cúng thứ mới; thứ héo cũng không được bỏ xuống đất dẫm đạp lên, mà nên đặt ở chỗ khuất. Không được nghe gọi mà không trả lời, và nghe gọi thì trả lời toàn bằng tiếng niệm Phật. Phàm nhặt của rơi thì tức khắc phải bạch vị tri sự.
(21) Phụ:- Bất đắc dữ niên thiếu Sa di kiết hữu. Bất đắc tam y cẩu giản. Bất đắc đa tác y phục, nhược hữu dư đương xả. Bất đắc biện tinh trí thao phất, ngoạn khí đẳng, trang điểm giang hồ, thủ tiếu thức giả. Bất đắc trước sắc phục, cập loại tục nhân y sức đẳng. Bất đắc bất tịnh thủ đáp y. Phàm thượng điện, tu thúc phược khố miệt, bất đắc phóng ý tự tiện. Bất đắc nhàn tẩu. Bất đắc đa ngôn. Bất đắc tọa thị đại chúng lao vụ, tị lại thâu an. Bất đắc tư thủ chiêu đề trúc mộc, hoa quả, sơ thái, nhất thiết ẩm thực cập nhất thiết khí vật đẳng. Bất đắc đàm thuyết triều đình công phủ chánh sự đắc thất, cập bạch y gia trường đoản hảo ác. Phàm tự xưng, đương cử nhị tự pháp danh, bất đắc vân ngã cập tiểu tăng. Bất đắc nhân tiểu sự tranh chấp. Nhược đại sự nan nhẫn giả, diệc tu tâm bình khí hòa, dĩ lý luận biện; bất khả tắc từ nhi khứ. Động khí phát thô, tức phi hảo tăng dã.
Phụ:- Không được cùng Sa di thiếu niên kết bạn. Không được đối với 3 pháp y mà cẩu thả thiếu sót. Không được sắm nhiều y phục, nếu có thừa thì nên bỏ ra mà cho. Không được sắm giây và phất tốt bền, đồ chơi vân vân, trang điểm theo thói giang hồ, chuốc lấy sự chê cười của thức giả. Không được mặc y phục có màu sắc chính, dùng phục sức giống thế tục. Không được tay không sạch mà đắp y. Phàm lên điện thì phải buộc ống quần, không được buông lung tự tiện. Không được đi dạo. Không được nói nhiều. Không được ngồi nhìn đại chúng làm việc mệt nhọc, mà mình tránh, nhác, cầu an. Không được lấy riêng của chiêu đề như tre cây, hoa trái, rau lá, mọi thứ đồ uống đồ ăn, mọi thứ đồ vật vân vân. Không được bàn tán sự lợi và sự hại của việc chính trị thuộc triều đình công sở, và những sự hay dở tốt xấu của người bạch y. Phàm tự xưng thì nên nói hai chữ pháp danh, không được nói ta và tiểu tăng. Không được nhân việc nhỏ mà tranh chấp. Nếu việc lớn khó nhẫn thì cũng phải tâm bình tĩnh, khí ôn hòa, lấy lẽ thảo luận; không được thì từ mà đi. Nỗi giận nói thô thì không phải tăng sĩ có tư cách.

Tùy Chúng Thực Đệ Ngũ
(Thứ 5, Theo Chúng Thọ Thực)
(22) Văn kiền chùy thanh, tức đương chỉnh y phục. Lâm thực chú nguyện, giai đương cung kính. Xuất sanh, phạn bất quá thất liệp, miến bất quá nhất thốn, man đầu bất quá chỉ giáp hử; đa tắc vi tham, thiểu tắc vi xan; kỳ dư sơ thái đậu hủ bất xuất. Phàm xuất sanh, an tả chưởng trung, tưởng niệm kệ vân: Nhữ đẳng quỉ thần chúng, Ngã kim thí nhữ cúng, Thử thực biến thập phương, Nhất thiết quỉ thần cọng. Phàm dục thực, tác ngũ quán tưởng: nhất kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ; nhị thỗn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng; tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông; tứ chánh sự lương dược, vị liệu hình khô; ngũ vị thành đạo cố, phương thọ thử thực.
Nghe tiếng kiền chùy là phải chỉnh đốn y phục. Lúc ăn, chú nguyện thì phải cung kính. Xuất sanh thì cơm không quá bảy hạt, bún không quá một tấc, bánh không quá cỡ móng tay; nhiều là tham, ít là lẫn; ngoài ra, rau lá và đậu hủ không xuất sanh. Phàm xuất sanh thì để trong tay trái, tưởng niệm bài kệ sau đây:
Chúng quỉ thần các người,
Nay tôi cho cúng phẩm,
Cúng phẩm này khắp cả,
Quỉ thần cùng hưởng thụ.
Sắp ăn, phải làm năm quán tưởng: một, xét kể công lao nhiều ít và ước lượng lý do của thực phẩm; hai, nghĩ kyՠđức hạnh của mình đủ hay thiếu để ứng thọ sự cúng dường; ba, đề phòng tâm lý, tránh những tội lỗi mà tham sân si vẫn làm chủ yếu; bốn, chính vì lấy thực phẩm làm dược phẩm tốt để trị liệu thân hình khô yếu; năm, vì thành đạo nghiệp mới ứng thọ thực phẩm này.
(23) Vô ha thực hảo ác. Bất đắc dĩ thực tư sở dữ, nhược trích dữ cẩu. Lai ích thực, bất đắc ngôn bất dụng; nhược dĩ bão, đương dĩ thủ nhượng khước chi. Bất đắc trảo đầu, sử phong tiết lạc lân bát trung. Bất đắc hàm thực ngữ. Bất đắc tiếu đàm tạp thoại. Bất đắc tước thực hữu thanh. Như dục khiêu nha, dĩ y tụ yểm khẩu. Thực trung hoặc hữu trùng nghị, nghi mật yểm tàng chi, mạc linh lân đơn kiến sanh nghi tâm. Đương nhất tọa thực, bất đắc thực ngật, ly tòa, cánh tọa thực. Bất đắc thực ngật, dĩ thủ chỉ quát oản bát thực. Phàm thực, bất đắc thái tốc, bất đắc thái trì. Hành thực vị chí, bất đắc sanh phiền não. Hoặc hữu sở nhu, mặc nhiên chỉ thọ, bất đắc cao thanh đại hoán. Bất đắc oản bát tác thanh. Bất đắc thực tất tiên khởi. Nhược vi tăng chế, văn bạch chùy, bất đắc kháng cự bất phục. Phạn trung hữu cốc, khử bì thực chi. Bất đắc kiến mỹ vị sanh tham tâm, tứ khẩu thực. Bất đắc thiên chúng thực.
Không được la rầy đồ ăn tốt xấu. Không được lấy đồ ăn cho riêng, hoặc trích cho chó. Người đến thêm đồ ăn, không được bảo không dùng; nếu no rồi thì phải lấy tay từ khước. Không được lấy móng tay gãi đầu, làm cho gió thổi hắt mạt vụn rơi trong bát của người ngồi bên cạnh. Không được ngậm đồ ăn mà nói. Không được cười bàn chuyện tạp. Không được nhai đồ ăn ra tiếng. Muốn khêu răng, phải lấy tay áo che miệng. Trong đồ ăn hoặc có sâu kiến, nên kín đáo che giấu đi, đừng để người ngồi đơn bên cạnh thấy, sanh nghi ngại. Phải ngồi ăn một lần mà thôi, không được ăn xong, rời chỗ ngồi rồi, lại ngồi ăn nữa. Không được ăn xong, lấy ngón tay vét chén bát mà ăn. Phàm ăn, không được quá mau, không được quá chậm. Người đi thêm đồ ăn chưa đến, không được sanh phiền não. Hoặc có cần gì, thì yên lặng dùng ngón tay mà trao ý, không được lớn tiếng gọi to. Không được khua chén bát ra tiếng. Không được ăn rồi dậy trước. Nếu trái qui chế tăng chúng, nghe bạch kiền chùy, không được kháng cự bất phục. Trong cơm có lúa thì bỏ vỏ mà ăn. Không được thấy mỹ vị thì sanh tham tâm, phóng túng miệng mà ăn. Không được ăn riêng tăng chúng.

Lễ Bái Đệ Lục
(Thứ 6, Lễ Bái)
(24) Lễ bái, bất đắc chiếm điện trung ương, thị trú trì vị. Hữu nhân lễ Phật, bất đắc hướng bỉ nhân đầu tiền kính quá. Phàm hiệp chưởng, bất đắc thập chỉ sâm si, bất đắc trung hư, bất đắc tương chỉ sáp tỷ trung, tu bình hung, cao đê đắc sở. Bất đắc phi thời lễ bái, như dục phi thời lễ, tu đãi nhân tịnh thời. Sư lễ Phật, bất đắc dữ sư tịnh lễ, đương tùy sư hậu viễn bái. Sư bái nhân, bất đắc dữ sư đồng bái. Tại sư tiền, bất đắc dữ đồng loại tương lễ. Tại sư tiền, bất đắc thọ nhân lễ. Kỷ thủ trì kinh tượng, bất đắc vị nhân tác lễ. Phụ: Phàm lễ bái, tu tinh thành tác quán. Giáo liệt thất chủng lễ, bất khả bất tri.
Lễ bái thì không được chiếm chỗ chính giữa điện Phật, vì đó là vị trí của vị trú trì. Có người lạy Phật, không được hướng tới trước đầu người ấy mà đi tắt. Phàm chắp tay, không được mười ngón so le, không được trống rỗng ở giữa, không được đưa ngón tay cắm vào lỗ mũi, phải để tay ngang ngực, cao thấp đúng chỗ. Không được lễ bái không phải lúc; muốn lễ bái không phải lúc thì phải đợi lúc mọi người yên tĩnh. Thầy lạy Phật, không được cùng thầy lạy ngang nhau, mà phải theo sau thầy và lạy cách xa. Thầy xá lạy người, không được cùng thầy đồng xá lạy. Trước thầy, không được cùng đồng bậc lạy nhau. Trước thầy, không được nhận người lạy. Tay mình cầm kinh tượng thì không được lạy người. Phụ: Phàm lễ bái, phải tinh thành mà quán tưởng. Giáo lý liệt kê bảy cách lạy, không thể không biết.

Thính Pháp Đệ Nhất
(Thứ 7, Nghe Pháp)
(25) Phàm ngộ quải thượng đường bài, nghi tảo thượng đường, mạc đãi pháp cổ đại lôi. Chỉnh lý y phục, bình thị trực tiến. Tọa tất đoan nghiêm. Bất đắc loạn ngữ, bất đắc đại khái thóa. Phụ: Phàm thính pháp, tu văn nhi tư, tư nhi tu. Bất đắc chuyên ký danh ngôn dĩ tư đàm bính. Bất đắc vị hội xưng hội, nhập nhĩ xuất khẩu. Niên thiếu Sa di giới lực vị cố, nghi cánh học Luật, bất đắc tảo phó giảng diên.
Phàm thấy treo bảng thượng đường thì nên sớm lên pháp đường, đừng chờ pháp cổ đánh lớn. Bằng cách chỉnh đốn y phục, nhìn ngang tầm mắt, tới thẳng pháp đường. Ngồi, phải thẳng và nghiêm. Không được nói bậy, không được ho và nhổ lớn. Phụ: Phàm nghe pháp, phải nghe mà nghĩ, nghĩ mà tu. Không được chuyên nhớ danh ngôn để cung cấp cho việc đàm luận. Không được chưa lãnh hội xưng lãnh hội, vào tai ra miệng. Sa di tuổi nhỏ, giới lực chưa bền chắc, thì phải học Luật nữa đã, không được đến pháp tịch sớm.

Tập Học Kinh Điển Đệ Bát
(Thứ 8, Học Tập Kinh Điển)
(26) Nghi tiên học luật, hậu học tu đa la, bất đắc vi việt. Phàm học nhất kinh tu tiên bạch sư, kinh hoàn cánh bạch biệt học mỗ kinh. Bất đắc khẩu xuy kinh thượng trần. Bất đắc kinh án thượng bao tàng trà mạt, tạp vật. Nhân duyệt kinh, bất đắc cận bỉ án tiền kinh hành. Phàm kinh tịch tổn hoại, nghi tốc tu bổ. Sa di bản nghiệp vị thành, bất đắc tập học ngoại thư, tử, sử, trị thế điển chương.
Phải trước học Luật, sau học Kinh, không được trái vượt thứ tự ấy. Phàm học kinh nào thì phải bạch thầy trước, kinh ấy xong thì lại bạch mà học kinh khác. Không được dùng miêểng thổi bụi trên kinh, Không được trên bàn kinh mà cất để trà mạt, tạp vật. Người xem kinh, không được đi qua gần trước bàn của họ. Phàm kinh sách hư hỏng, phải cấp tốc tu bổ. Sa di mà việc chính chưa thành thì không được học tập sách vở của dị giáo, của tư tưởng gia, của sử truyện, của chính trị.
(27) Phụ:- Bất đắc giản ứng phó đạo tràng kinh tập học. Bất đắc tập học ngụy tạo kinh điển. Bất đắc tập học mạng thư, tướng thư, y thư, binh thư, bốc thệ thư, thiên văn thư, địa lý thư, đồ sấm thư, nãi chí lô hỏa hoàng bạch, thần kỳ quỉ quái, phù thủy đẳng thư. Bất đắc tập học tuyên quyển đả kệ. Bất đắc tập học ngoại đạo thư, trừ trí lực hữu dư, vị dục tri nội ngoại giáo thâm thiển giả, khả dĩ thiệp liệp, nhiên vật sanh tập học tưởng. Bất đắc tập học thi từ. Bất đắc trước tâm học tự cầu công, đãn thơ tả đoan khải túc hỷ. Bất đắc ô thủ chấp trì kinh. Đối kinh điển như đối Phật, bất đắc hý tiếu. Bất đắc án thượng lang tạ quyển trật. Bất đắc cao thanh động chúng. Bất đắc tá nhân kinh khán bất hoàn, cập bất gia ái trọng dĩ trí tổn hoại.
Phụ:- Không được chọn kinh ứng phó đạo tràng mà học tập. Không được học tập kinh điển ngụy tạo. Không được học tập sách coi số, sách coi tướng, sách thuốc, sách quân sự, sách bói, sách thiên văn, sách địa lý, sách sấm truyền, cho đến những sách luyện đan, thần kỳ quỉ quái, phù thủy vân vân. Không được học tập cách xướng kinh họa kệ. Không được học tập sách ngoại đạo, trừ trí lực có thừa, vì muốn biết sự sâu cạn của nội giáo và ngoại giáo, thì có thể đọc qua, nhưng không sanh ý tưởng học tập. Không được học tập thi từ. Không được để tâm tập chữ cho đẹp, chỉ viết cho ngay ngắn là đủ. Không được tay dơ mà cầm nắm kinh điển. Đối với Kinh như đối với Phật, không được giỡn cười. Không được trên bàn kinh để quyền pho bừa bãi. Không được đọc kinh lớn tiếng động chúng. Không được mượn kinh của người để coi mà không trả, lại không gia tâm quí trọng để đến nỗi hư hỏng.

Nhập Tự Viện Đệ Cửu
(Thứ 9, Vào Tự Viện)
(28) Phàm nhập tự môn, bất đắc hành trung ương, tu duyên tả hữu biên hành; duyên tả tiên tả túc, duyên hữu tiên hữu túc. Bất đắc vô cố đăng đại điện du hành. Bất đắc vô cố đăng tháp. Nhập điện tháp đương hữu nhiễu, bất đắc tả chuyển. Bất đắc điện tháp trung thế thóa. Nhiễu tháp hoặc tam tạp, thất tạp, nãi chí thập tạp, bách tạp, tu tri biến số. Bất đắc dĩ lạp trượng đẳng ỷ điện bích.
Phàm vào cửa chùa, không được đi chính giữa. Phải ven theo bên trái bên phải mà đi. Ven bên trái thì trước bước chân trái, ven bên phải thì trước bước chân phải. Không được vô cớ lên đại diện dạo chơi. Không được vô cớ lên tháp. Vào điện tháp, phải đi vòng quanh bên phải, không được đi vòng quanh bên trái. Không được trong điện tháp mà hỉ nước mũi, nhổ nước miếng. Nhiễu tháp thì hoặc 3 vòng, 7 vòng, cho đến 10 vòng, 100 vòng, và phải biết số vòng ấy. Không được đem nón gậy vân vân để dựa vào vách điện Phật.

Nhập Thiền Đường Tùy Chúng Đệ Thập
(Thứ 10, Vào Nhà Thiền Với Đồng Chúng)
(29) Đơn thượng, bất đắc đẩu y bị tác thanh phiến phong, sử lân đơn động niệm. Hạ sàng mặc niệm kệ vân:
Tùng triêu dần đán trực chí mộ,
Nhất thiết chúng sanh tự hồi hộ;
Nhược ư túc hạ táng thân hình,
Nguyện nhữ tức thời sanh tịnh độ.
Bất đắc đại ngữ cao thanh. Khinh thủ yết liêm tu thùy hậu thủ. Bất đắc đà hài tác thanh. Bất đắc đại khái sấu tác thanh. Bất đắc lân đơn giao đầu tiếp nhĩ giảng thuyết thế sự. Hoặc hữu đạo bạn thân tình tương khán, đường trung bất đắc cửu thoại; tương yêu lâm hạ thủy biên, nãi khả khuynh tâm đàm luận. Nhược khán kinh, tu đoan thân trừng tâm mặc ngoạn, bất đắc xuất thanh. Nhị bản minh, tức nghi tảo tiến đường. Qui vị, mặc niệm kệ vân:
Chánh thân đoan tọa,
Đương nguyện chúng sanh,
Tọa Bồ đề tòa,
Tâm vô sở trước.
Trên đơn, không được rủ áo chăn ra tiếng, phát gió, làm người trên đơn bên cạnh động niệm. Xuống giường thì niệm thầm bài kệ sau đây:
Từ sáng giờ dần suốt đến tối,
Hết thảy chúng sanh tự tránh giữ;
Nếu rủi mất mạng dưới chân tôi,
Cầu nguyện tức thì sanh tịnh độ.
Không được to lời lớn tiếng. Nhẹ tay thả sáo phải đỡ tay phía sau. Không được kéo giày ra tiếng. Không được ho khan ho đàm lớn ra tiếng. Không được cùng người trên đơn bên cạnh chụm đầu, kề tai, bàn tán thế sự. Hoặc có pháp hữu thân tình đến thăm, thì trong thiền đường không được nói chuyện lâu; hãy mời đến dưới cây hay bên suối mới có thể khuynh tâm đàm luận. Nếu xem kinh, phải thẳng mình, lắng lòng, yên lặng nghiền ngẫm, không được đọc ra tiếng. Bảng đánh 2 tiếng thì nên sớm tới thiền đường. Đến ngồi chỗ của mình thì niệm thầm bài kệ sau đây:
Thẳng mình ngồi ngay,
Nên nguyện chúng sanh,
Ngồi tòa Bồ đề,
Tâm không vướng mắc.
(30) Phụ:- Bất đắc xuyên đường trực quá. Thượng đơn hạ đơn câu đương tế hạnh, vật linh lân đơn động niệm. Bất đắc đơn thượng tả văn tự, trừ chúng khán kinh giáo thời. Bất đắc đơn thượng tương tụ bãi trà, dạ tọa tạp thoại. Bất đắc đơn thượng phùng bổ y bị. Bất đắc miên ngọa cọng lân đơn thuyết thoại, động chúng.
Phụ:- Không được xuyên thiền đường mà đi thẳng. Lên đơn xuống đơn đều phải nhẹ nhàng, đừng làm người trên đơn bên cạnh động niệm. Không được trên đơn viết chép, trừ khi cả chúng coi kinh điển. Không được trên đơn xúm nhau bày trà, ngồi đêm, nói tạp. Không được trên đơn may vá áo chăn. Không được nằm ngang, cùng người trên đơn bên cạnh nói chuyện, động chúng.

Chấp Tác Đệ Thập Nhất
(Thứ 11, Làm Việc)
(31) Đương tích chúng tăng vật. Đương tùy tri sự giả giáo lệnh, bất đắc vi lệ. Phàm tẩy thái, đương tam dịch thủy. Phàm cấp thủy, tiên tịnh thủ. Phàm dụng thủy, tu đế thị hữu trùng vô trùng, hữu, dĩ mật la lự quá phương dụng; nhược nghiêm đông, bất đắc tảo lự thủy, tu đãi nhật xuất. Phàm thiêu táo, bất đắc nhiên hủ tân. Phàm tác thực, bất đắc đới trảo giáp cấu. Phàm khí ác thủy, bất đắc đương đạo, bất đắc cao thủ dương bát; đương ly địa tứ ngũ thốn, từ từ khí chi. Phàm tảo địa, bất đắc nghịch phong tảo, bất đắc tụ khôi thổ an môn phiến hậu. Tẩy nội y, tu thập khứ kỷ sắt phương tẩy. Hạ nguyệt, dụng thủy bồn liễu tu phúc, nhược ngưỡng tức trùng sanh. Phụ: Bất đắc nhiệt thang bát địa thượng. Nhất thiết mễ miến sơ quả đẳng, bất đắc khinh khí lang tạ, tu gia ái tích.
Phải thương tiếc vật của tăng chúng. Phải tùy giáo lịnh của vị tri sự, không được trái, ngang. Phàm rửa rau, phải 3 lần đổi nước. Phàm múc nước, trước phải sạch tay. Phàm dùng nước, phải nhìn kỹ có trùng không trùng, có thì lấy là dày lọc đi mới dùng; mùa đông lạnh lắm thì không được lọc nước sớm, phải chờ mặt trời mọc. Phàm đốt bếp, không được đốt củi thối mục. Phàm làm đồ ăn, không được để bẩn trong móng tay. Phàm đổ bỏ nước dơ, không được đổ ra đường đi, không được cao tay dơ lên đổ xuống bắn ra; phải cách đất bốn năm tấc từ từ đổ bỏ nước ấy. Phàm quét đất, không được quét ngược gió, không được dồn đất bụi vào sau cánh cửa. Giặt áo trong, phải nhặt bỏ rận chấy mới giặt. Những tháng hè, dùng chậu nước rồi, phải lật úp xuống, nếu để ngửa ra là sinh trùng. Phụ: Không được nước sôi đang nóng mà rót bắn trên đất. Tất cả gạo bột, rau trái vân vân, không được khinh bỏ bừa bãi, phải gia tâm quí tiếc.

Nhập Dục Đệ Thập Nhị
(Thứ 12, Vào Nhà Tắm)
(32) Tiên dĩ thang tẩy diện. Tùng thượng chí hạ, từ từ tẩy chi. Bất đắc thô táo, dĩ thang thủy tiễn lân nhân. Bất đắc dục đường tiểu di. Bất đắc cọng nhân ngữ tiếu; Nhân thiên bảo giám vân, nhất Sa di nhập dục hý tiếu, toại cảm Phất thang địa ngục chi báo. Bất đắc tẩy tích xứ. Phàm hữu sang tiển, nghi tại hậu dục; hoặc hữu khả úy sang, vưu nghi hồi tỹ miễn thích nhân nhãn. Bất đắc tứ ý cửu tẩy, phương ngại hậu nhân. Phụ: Thoát y trước y, an tường tự tại. Dục tiền, tiên tẩy tịnh, tu tế hạnh; bất đắc dĩ tẩy tịnh thủy nhập dục phũ. Thang lãnh nhiệt, y lệ kích bang, bất đắc đại hoán.
Trước, lấy nước nóng rửa mặt. Rồi từ trên đến dưới, từ từ mà rửa. Không được tinh nghịch, lấy nước nóng tạt người bên cạnh. Không được trong nhà tắm mà tiểu giải. Không được cùng người nói cười; sách Nhân thiên bảo giám nói, một Sa di vào tắm mà giỡn cười nên cảm ra quả báo địa ngục Sôi sục. Không được rửa chỗ kín. Phàm có ghẻ nhọt ghẻ lở thì nên tắm sau; hoặc có ghẻ nhọt đáng sợ, càng nên tránh đi, khỏi gớm mắt người. Không được mặc ý lắm rửa lâu, trở ngại người sau. Phụ: Cởi áo mặc áo nên thung dung tự tại. Trước khi tắm phải tẩy tịnh, và tẩy tịnh thì phải giữ tế hạnh; không được đem nước tẩy tịnh đổ vào vạc nước tắm. Cần nước nóng đã nguội hay còn nóng thì y lệ mà đánh mõ dài, không được gọi lớn.

Nhập Xí Đệ Thập Tam
(Thứ 13, Vào Nhà Xí)
(33) Dục đại tiểu tiện tức đương hành, mạc đãi nội bức thảng thốt. Ư trúc can thượng quải trực chuyết, triệp linh tề chỉnh, dĩ thủ cân hoặc yêu thao hệ chi, nhất tác ký nhận, nhị khủng đọa địa. Tu thoát hoán hài lý, bất khả tịnh hài nhập xí. Chí, đương tam đàn chỉ, sử nội nhân tri. Bất đắc bách xúc nội nhân sử xuất. Dĩ thượng, phục đương tam đàn chỉ, mặc niệm vân:
Đại tiểu tiện thời,
Đương nguyện chúng sanh,
Khí tham sân si,
Quyên trừ tội pháp.
Bất đắc đê đầu thị hạ. Bất đắc trì thảo họa địa. Bất đắc nỗ khí tác thanh. Bất đắc cách bích cọng nhân thuyết thoại. Bất đắc thóa bích. Phùng nhân bất đắc tác lễ, nghi trắc thân thi. Bất đắc duyên lộ hành hệ y đới. Tiện tất, đương tịnh tháo thủ, vị tháo bất đắc trì vật. Tẩy thủ mặc niệm vân:
Dĩ thủy quán chưởng,
Đương nguyện chúng sanh,
Đắc thanh tịnh thủ,
Thọ trì Phật pháp.
Án chủ ca ra da sa ha.
Phụ:- Nhược tiểu giải, diệc yếu thâu khởi y tụ. Hựu bất khả trước thiên sam tiểu giải.
Muốn đại diện tiểu tiện là nên đi ngay, đừng đợi trong cơ thể bức bách mà thảng thốt. Ở trên sào tre, treo áo trực chuyết thì phải gấp xếp cho tề chỉnh, lấy khăn tay hoặc dây lưng buộc áo ấy, một là làm dấu nhận biết, hai là sợ rơi xuống đất. Phải cởi đổi giày dép, không được mang giày dép sạch vào nhà xí. Đến nhà xí, phải ba lần đàn chỉ để cho người ở trong đó biết. Không được thúc bách người ở trong đó cho họ phải ra. Đã lên nhà xí, lại phải ba lần đàn chỉ, niệm thầm:
Đại tiện tiểu tiện,
Nên nguyện chúng sanh,
Xả tham sân si,
Loại trừ tội lỗi.
Không được cúi đầu nhìn xuống. Không được cầm cỏ vẽ đất. Không được rán hơi ra tiếng. Không được cách vách cùng người nói chuyện. Không được nhổ nước miếng vào vách. Gặp người không được thi lễ, phải nghiêng mình tránh họ. Không được ven theo đường vừa đi vừa buộc áo, dải. Tiện lợi hoàn tất, phải rửa tay thật sạch, chưa rửa thì không được cầm nắm đồ vật. Rửa tay thì niệm thầm:
Lấy nước rửa tay
Nên nguyện chúng sanh,
Được tay thanh tịnh,
Nhận giữ Phật pháp
Án chủ ca ra da sa ha.
Phụ:- Tiểu giải, cũng phải vén tay áo lên. Lại không được mặc áo thiên sam mà tiểu giải.

Thụy Ngọa Đệ Thập Tứ
(Thứ 14, Nằm Ngủ)
(34) Ngọa, tu hữu hiếp, danh cát tường thụy. Bất đắc ngưỡng ngọa phúc ngọa, cập tả hiếp ngọa. Bất đắc dữ sư đồng thất đồng tháp, hoặc đắc đồng thất, bất đắc đồng tháp. Diệc bất đắc dữ đồng sự Sa di cọng tháp. Phàm quải hài lý, tiểu y đẳng, bất đắc quá nhân đầu diện. Phụ: Bất đắc thoát lý y ngọa. Bất đắc thụy sàng thượng tiếu ngữ cao thanh. Bất đắc thánh tượng cập pháp đường tiền huề niệu khí quá.
Nằm, phải nghiêng hông bên phải, gọi là cách ngủ cát tường. Không được nằm ngửa, nằm sấp, và nằm nghiêng hông bên trái. Không được cùng thầy đồng phòng đồng giường, hoặc được đồng phòng mà không được đồng giường. Cũng không được cùng Sa di đồng sự chung giường. Phàm treo giày, tất, áo nhỏ vân vân, không được quá đầu và mặt người. Phụ: Không được cởi áo trong mà nằm. Không được trên giường ngủ cười nói lớn tiếng. Không được trước thánh tượng và pháp đường mà mang đồ tiểu tiện đi qua.

Vi Lô Đệ Thập Ngũ
(Thứ 15, Quanh Lò Lửa)
(35) Bất đắc giao đầu tiếp nhĩ thuyết thoại. Bất đắc đàn cấu nị hỏa trung. Bất đắc hồng bồi hài miệt. Bất đắc hướng hỏa thái cửu, khủng phương hâểu nhân. Xảo noãn, tiện nghi qui vị.
Không được giao đầu tiếp tai nói chuyện. Không được gảy búng cáu bẩn vào trong lửa. Không được hơ sấy giày, tất. Không được hơ lửa quá lâu, sợ trở ngại người sau. Hơi ấm, liền nên về chỗ.

Tại Phòng Trung Trú Đệ Thập Lục
(Thứ 16, Ở Trong Phòng)
(36) Canh tương vấn tấn, tu tri đại tiểu. Dục trì đăng hỏa nhập, dự cáo phòng nội tri, vân hỏa nhập; dục diệt đăng hỏa, dự vấn đồng phòng nhân, cánh dụng đăng phủ. Diệt đăng hỏa, bất đắc khẩu xuy. Niệm tụng, bất đắc cao thanh. Nhược hữu bịnh nhân, đương từ tâm thỉ chung khán chi. Hữu nhân thụy, bất đắc đả vật tác hưởng, cập cao thanh ngữ tiếu. Bất đắc vô cố nhập tha phòng viện.
Chào hỏi nhau, phải biết lớn nhỏ. Muốn cầm lửa đèn vào, phải bảo trước trong phòng biết, rằng tôi cầm lửa đèn vào; muốn tắt lửa đèn, phải hỏi trước người cùng phòng còn dùng nữa không. Tắt lửa đèn, không được dùng miệng mà thổi. Tụng niệm thì không được lớn tiếng. Nếu có bịnh nhân thì nên từ tâm coi sóc từ đầu đến cuối. Có người ngủ thì không được đụng đồ ra tiếng, và lớn tiếng nói cười. Không được vô cớ vào phòng khác.

Đáo Ni Tự Đệ Thập Thất
(Thứ 17, Đến Chùa Ni)
(37) Hữu dị tòa phương tọa, vô dị tòa bất đắc tọa. Bất đắc vi phi thời chi thuyết. Nhược hoàn, bất đắc thuyết kỳ hảo xú. Bất đắc thư sớ vãng lai, cập giả tá tài cát tẩy hoán đẳng. Bất đắc thủ vị tịnh phát. Bất đắc bình xứ cọng tọa. Phụ: Vô nhị nhân, bất đắc đan tiến. Bất đắc bỉ thử tống lễ. Bất đắc chúc thác ni tăng nhập hào quí gia hóa duyên, cập cầu niệm kinh sám đẳng. Bất đắc dữ ni tăng kết bái phụ mẫu, tỷ muội, đạo hữu.
Có chỗ ngồi khác mới ngồi, không có chỗ ngồi khác thì không được ngồi. Không được nói không phải lúc. Về, không được nói sự tốt xấu của họ. Không được thư từ qua lại, và mượn nhờ may vá giặt rũ vân vân. Không được chính tay mình cạo tóc cho họ. Không được cùng ngồi chỗ khuất. Phụ: Không phải hai người thì không được đến một mình. Không được lễ vật qua lại. Không được dặn nhờ ni tăng đến nhà hào quý mà khuyến hóa, cầu tụng kinh sám vân vân. Không được cùng ni tăng kết làm cha mẹ, chị em, pháp hữu.

Chí Nhân Gia Đệ Thập Bát
(Thứ 18, Đến Nhà Người)
(38) Hữu dị tòa đương tọa, bất nghi tạp tọa. Nhân vấn kinh, đương tri thời; thận vật vi phi thời chi thuyết. Bất đắc đa tiếu. Chủ nhân thiết thực, tuy phi pháp hội, diệc vật thất nghi quỹ. Vô phạm dạ hành. Bất đắc không thất nội hoặc bình xứ, dữ nữ nhân cọng tọa cọng ngữ. Bất đắc thư sớ vãng lai đẳng, đồng tiền. Nhược nghệ tục tỉnh thân, đương tiên nhập trung đường lễ Phật, hoặc gia đường thánh tượng đoan trang vấn tấn, thứ phụ mẫu quyến thuộc đẳng, nhất nhất vấn tấn. Bất đắc hướng phụ mẫu thuyết sư pháp nghiêm, xuất gia nan, tịch liêu đạm bạc, gian tân khổ khuất đẳng sự; nghi vị thuyết Phật pháp, linh sanh tín tăng phước. Bất đắc dữ thân tộc tiểu nhi đẳng cửu tọa cửu lập, tạp thoại hý tiếu; diệc bất đắc vấn tộc trung thị phi hảo ác. Nhược thiên vãn tác túc, đương độc xử nhất tháp, đa tọa thiểu ngọa, nhất tâm niệm Phật; sự ngật tức hoàn, bất đắc lưu liên.
Có chỗ ngồi khác mới nên ngồi, không được ngồi tạp. Người ta hỏi kinh thì phải biết lúc, thận trọng đừng làm cái việc nói không phải lúc. Không được cười nhiều. Chủ nhân thiết trai, dẫu không phải pháp hội, cũng đừng bỏ nghi thức. Đừng phạm cái lỗi đi đêm. Không được ở trong nhà vắng, hoặc ở chỗ khuất, cùng phụ nữ ngồi với nhau, nói với nhau. Không được thư từ qua lại vân vân, như trước đã nói. Đến nhà tục thăm người thân, phải trước hết vào nhà chính lạy Phật, hoặc đến trước tượng thánh trong nhà nghiêm chỉnh chắp tay, thứ đến cha mẹ bà con vân vân, nhất nhất chào hỏi. Không được hướng về cha mẹ nói những việc như cái nghiêm của phép thầy, cái khó của xuất gia, cô liêu đạm bạc, gian nan khổ sở, vân vân; nên vì cha mẹ nói Phật pháp, làm cho cha mẹ phát sinh tín tâm và tăng trưởng phước đức. Không được cùng thân tộc, thiếu niên vân vân, ngồi lâu đứng lâu, nói tạp giỡn cười; cũng không được hỏi đến những việc phải trái tốt xấu trong thân tộc. Nếu trời tối, ngủ lại, thì phải dùng riêng một giường, ngồi nhiều nằm ít, nhất tâm niệm Phật; việc xong về liền, không được lưu luyến.
(39) Phụ:- Bất đắc tả hữu tà thị. Bất đắc tạp ngữ. Nhược dữ nữ nhân ngữ, bất đắc đê thanh mật ngữ. Bất đắc đa ngữ. Bất đắc trá hiện uy nghi, giả trang thiền tướng, cầu bỉ cung kính. Bất đắc cuống thuyết Phật pháp, loạn đáp tha vấn, tự mại đa văn, cầu bỉ cung kính. Bất đắc tống hạp lễ, hiệu bạch y vãng hoàn. Bất đắc quản nhân gia vụ. Bất đắc tạp tọa tửu tịch. Bất đắc kết bái bạch y nhân tác phụ mẫu tỷ muội. Bất đắc thuyết tăng trung quá thất.
Phụ:- Không được nhìn hai bên một cách bất chính. Không được nói tạp. Nói với phụ nữ thì không được thấp tiếng nói thầm. Không được nói nhiều. Không được trá hiện uy nghi, giả trang thiền tướng, mong họ cung kính. Không được nói dối trá chánh pháp của Phật, đáp rối loạn lời hỏi của người, tự khoe đa văn, cầu họ cung kính. Không được biếu tặng lễ vật, học đòi sự giao hảo của người đời. Không được lo liệu việc nhà của người. Không được ngồi xen tiệc rượu. Không được cùng người đời kết làm cha mẹ chị em. Không được nói lỗi lầm trong tăng chúng.

Khất Thực Đệ Thập Cửu
(Thứ 19, Khất Thực)
(40) Đương dữ lão thành nhân câu. Nhược vô nhân câu, đương tri sở khả hành xứ. Đáo nhân môn hộ, nghi thẩm cử thác, bất đắc thất uy nghi. Gia vô nam tử, bất khả nhập môn. Nhược dục tọa, tiên đương chiêm thị tòa tịch: hữu đao binh bất nghi tọa, hữu bảo vật bất nghi tọa, hữu phụ nhân y bị trang nghiêm đẳng bất nghi tọa. Dục thuyết kinh, đương tri sở ưng thuyết thời, bất ưng thuyết thời. Bất đắc thuyết dữ ngã thực linh nhĩ đắc phước. Phụ: Phàm khất thực, bất đắc ai cầu khổ sách. Bất đắc quảng đàm nhân quả, vọng bỉ đa thí. Đa đắc vật sanh tham trước, thiểu đắc vật sanh ưu não. Bất đắc chuyên hướng thục tình thí chủ gia cập thục tình am viện xứ sách thực.
Nên cùng bậc lão thành đi chung. Nếu không có bâểc lão thành đi chung thì phải biết chỗ có thể đi. Đến cửa ngõ của người, phải xét kỹ cử động, không được để mất uy nghi. Nhà không có đàn ông thì không được vào cửa. Nếu muốn ngồi, trước hết phải xem kỹ chỗ ngồi: có khí giới không nên ngồi, có đồ quí không nên ngồi, có y phục và đồ trang sức vân vân của phụ nữ không nên ngồi. Muốn nói kinh, phải biết lúc đáng nói, lúc không đáng nói. Không được nói cho tôi đồ ăn thì làm cho người được phước. Phụ: Phàm khất thực, không được khẩn khoản nài nỉ. Không được nói nhiều về nhân quả, mong họ cho nhiều. Được nhiều đừng sanh tham trước, được ít đừng sanh phiền não. Không được hay đến nhà thí chủ thân tình hoặc chỗ am viện thân tình mà đòi hỏi thực phẩm.

Nhập Tụ Lạc Đệ Nhị Thập
(Thứ 20, Vào Chỗ Dân Cư)
(41) Vô thiết duyên, bất đắc nhập. Bất đắc trì hành. Bát đắc diêu tý hành. Bất đắc sác sác bàng thị nhân vật hành. Bất đắc cọng Sa di tiểu nhi đàm tiếu hành. Bất đắc dữ ni tăng tiền hậu hỗ tùy hành. Bất đắc dữ túy nhân cuồng nhân tiền hậu hỗ tùy hành. Bất đắc cố thị nữ nhân. Bất đắc nhãn giác bàng khán nữ nhân. Hoặc phùng tôn túc thân thức, câu lập hạ bàng, tiên ý vấn tấn. Hoặc phùng hý huyễn kỳ quái đẳng, câu bất nghi khán, duy đoan thân chánh đạo nhi hành. Phàm ngộ thủy khanh, thủy khuyết, bất đắc khiêu việt; hữu lộ đương nhiễu hành, vô lộ, chúng giai khiêu việt tắc đắc. Phi bịnh duyên cập cấp sự, bất đắc thừa mã, nãi chí hý tâm tiên sách trì sậu. Phụ: Phàm ngộ quan phủ, bất luận đại tiểu, câu nghi hồi ty. Ngộ đấu tránh giả diệc viễn thi, bất đắc trụ khán. Bất đắc hồi tự khoa trương sở kiến thành trung hoa mỹ chi sự.
Không có lý do cần thiết thì không được vào. Không được đi như chạy. Không được đi mà lay động cánh tay. Không được đi mà luôn luôn nhìn qua hai bên những người và vật. Không được đi mà cùng Sa di hay thiếu niên nói cười. Không được đi mà cùng phụ nữ trước sau theo nhau. Không được đi mà cùng ni tăng trước sau theo nhau. Không được đi mà cùng người say người khùng trước sau theo nhau. Không được cố nhìn phụ nữ. Không được dùng khóe mắt nhìn qua phụ nữ. Gặp tôn túc, thân thức, thì nên đứng chỗ thấp hoặc đứng một bên, chào hỏi trước. Gặp những sự kỳ lạ như trò chơi, ảo thuật vân vân, đều không nên xem; chỉ thẳng mình ngay đường mà đi. Phàm gặp nước hố, nước lở, không được nhảy qua; có đường khác thì nên đi vòng quanh, không có đường khác mà mọi người cùng nhảy qua thì được. Không phải lý do bịnh và việc khẩn cấp thì không được cỡi ngựa, cho đến đùa giỡn ra roi cho ngựa chạy. Phụ: Phàm gặp quan quyền, bất luận lớn nhỏ, đều nên tránh đi. Gặp kẻ đánh nhau cãi nhau, cũng nên tránh xa, không được dừng ngó. Không được về chùa khoa trương những sự hoa mỹ trong thành thị mà mình đã thấy.

Thị Vật Đệ Nhị Thập Nhất
(Thứ 21, Mua Đồ)
(42) Vô tranh quí tiện. Vô tọa nữ tứ. Nhược vi nhân sở phạm, phương tiện thi, vật tùng cầu trị. Dĩ hứa giáp vật, tuy phục cánh tiện, vô xả bỉ thủ thử, linh chủ hữu hận. Thận vô bảo nhậm trí khiên phụ:
Không tranh đắt rẻ. Không ngồi hàng quán phụ nữ. Nếu bị người xúc phạm thì phương tiện tránh đi, đừng theo mà mưu cầu giá rẻ. Đã hứa mua vật của ai, thì dẫu vật của người khác rẻ hơn cũng đừng bỏ vật ấy lấy vật này, làm cho chủ vật ấy tức giận. Thận trọng, đừng bảo lãnh kẻo dẫn đến lỡ lầm và mắc nợ.

Phàm Sở Thi Hành Bất Đắc Tự Dụng Đệ Nhị Thập Nhị
(Thứ 22, Làm Gì Cũng Không Được Tự Ý)
(43) Xuất nhập hành lai, đương tiên bạch sư. Tác tân pháp y, đương tiên bạch sư; trước tân pháp y, đương tiên bạch sư. Thế đầu, đương tiên bạch sư. Tật bịnh phục dược, đương tiên bạch sư. Tác chúng tăng sự, đương tiên bạch sư. Dục hữu tư cụ chỉ bút chi bối, đương tiên bạch sư. Nhược phúng khởi kinh bối, đương tiên bạch sư. Nhược nhân dĩ vâểt huệ thí, đương tiên bạch sư dĩ nhiên hậu thọ; kỷ vật huệ thí nhân, đương tiên bạch sư, sư thính nhiên hậu dữ. Nhân tùng kỷ giả tá, đương tiên bạch sư, sư thính nhiên hậu dữ; kỷ dục tùng nhân tá vật, đương tiên bạch sư, sư thính đắc khứ. Bạch, sư thính bất thính, giai đương tác lễ; bất thính, bất đắc hữu hận ý. Phụ: Nãi chí đại sự, hoặc du phương, hoặc thính giảng, hoặc nhập chúng, hoặc thủ sơn, hoặc hưng duyên sự, giai đương bạch sư, bất đắc tự dụng.
Ra vào đi về, phải bạch thầy trước. Sắm pháp y mới, phải bạch thầy trước; mặc pháp y mới, phải bạch thầy trước. Cạo đầu, phải bạch thầy trước. Tật bịnh uống thuốc, phải bạch thầy trước. Làm việc tăng chúng, phải bạch thầy trước. Muốn có đồ riêng thuộc loại giấy bút, phải bạch thầy trước. Tụng kinh tán kệ, phải bạch thầy trước. Ai đem đồ cho mình, phải bạch thầy mới nhận; mình đem đồ cho ai, phải bạch thầy, thầy chấp thuận mới cho. Ai mượn đồ, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới cho mượn; mình mượn đồ của ai, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới mượn. Bạch thầy, thầy chấp thuận hay không chấp thuận, đều phải làm lễ. Thầy không chấp thuận, không được có ý giận hờn. Phụ: Cho đến việc lớn như du học, như nghe giảng, như nhập chúng, như giữ chùa, như những việc kết thiện duyên với Tam bảo, đều phải bạch thầy, không được tự ý.

Tham Phương Đệ Nhị Thập Tam
(Thứ 23, Đi Học Xa)
(44) Viễn hành yếu giả lương bằng. Cổ nhân tâm địa vị thông, bất viễn thiên lý cầu sư. Phụ: Niên ấu giới thiển, vị hứa viễn hành; như hành, bất đắc dữ bất lương chi bối đồng hành. Tu vị tầm sư phỏng đạo, quyết trạch sanh tử, bất nghi quan sơn ngoạn thủy, duy đồ du lịch quảng viễn, khoa thị ư nhân. Sở đáo chi xứ, yết phóng hành lý, bất đắc kính nhập điện đường. Nhất nhân khán hành lý, nhất nhân tiên tiến vấn tấn, thủ thường trú tiến chỉ, phương khả an đốn hành lý nhập nội.
Đi xa cần nhờ bạn tốt. Người xưa tâm địa chưa thông suốt thì không ngại đi xa ngàn dặm mà cầu thầy. Phụ: Tuổi nhỏ giới cạn thì chưa cho đi xa; nếu đi, không được cùng những kẻ không tốt đi chung. Phải vì tìm thầy hỏi đạo, giải quyết sanh tử, không nên nhìn non ngắm nước, chỉ toan tính du lịch rộng xa để khoe khoang với người. Đến đâu thì để hành lý xuống, không được vào thẳng điện Phật, hay giảng đường, tăng đường. Phải một người coi hành lý, một người vào trước chào hỏi, tiếp nhận qui củ tiến chỉ của thường trú chỗ ấy mới có thể thu xếp hành lý vào phía trong.

Y Bát Danh Tướng Đệ Nhị Thập Tứ
(Thứ 24, Danh Tướng Y Bát [Mà Sa di Phải Biết Trước)
(45) Ngũ điều y, Phạn ngữ An Đà Hội, thử vân trung túc y, diệc vân hạ y, diệc vân tạp tác y. Phàm tự trung chấp lao phục dịch, lộ đồ xuất nhập vãng hoàn, đương trước thử y. Đáp y kệ vân:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Ngã kim đảnh đới thọ,
Thế thế bất xả ly.
Án tất đà da sa bà ha.
Pháp y 5 điều, Phạn ngữ là An Đà Hội, xứ này dịch trung túc y, cũng dịch hạ y, cũng dịch tạp tác y. Phàm chấp lao phục dịch trong chùa, ra vào qua lại ngoài đường nên mang pháp y này. Bài kệ mang pháp y này là:
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước tối thượng,
Nay tôi kính tiếp nhận,
Đời đời không rời bỏ.
Án tất đà da sa bà ha.
(46) Thất điều y, Phạn ngữ Uất Đa La Tăng, thử vân thượng trước y, diệc vân nhập chúng y. Phàm lễ Phật, tu sám, tụng kinh, tọa thiền, phó trai, thính giảng, bố tát, tự tứ, đương trước thử y. Đáp y kệ vân:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Ngã kim đảnh đới thọ,
Thế thế thường đắc phi.
Án độ ba độ ba sa bà ha.
Pháp y 7 điều, Phạn ngữ là Uất Đa La Tăng, xứ này dịch thượng trước y, cũng dịch nhập chúng y. Phàm lạy Phật, tu sám, tụng kinh, tọa thiền, phó trai, nghe giảng, bố tát, tự tứ, nên mang pháp y này. Bài kệ mang pháp y này là:
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước tối thượng,
Nay tôi kính tiếp nhận,
Đời đời thường khoác mặc.
Án độ ba độ ba sa bà ha.
(47) Nhị thập ngũ điều y, Phạn ngữ tăng già lê, thử vân hợp, diệc vân trùng, diệc vân tạp toái y. Phàm nhập vương cung, thăng tòa thuyết pháp, tụ lạc khất thực, đương trước thử y. Hựu thử y cửu phẩm: hạ phẩm hữu tam, vị cửu điều, thập nhất điều, thập tam điều; trung phẩm hữu tam, vị thập ngũ điều, thập thất điều, thập cửu điều; thượng phẩm hữu tam, vị nhị thập nhất điều, nhị thập tam điều, nhị thập ngũ điều. Đáp y kệ vân:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Ngã kim đảnh đới thọ,
Quảng độ chư quần mê.
Án ma ha ca ba bà tra tất đế sa bà ha.
Pháp y 25 điều, Phạn ngữ là tăng già lê, xứ này dịch là hợp, cũng dịch là trùng, cũng dịch là tạp toái y. Phàm vào vương cung, thăng tòa thuyết pháp, khất thực phường khóm [truyền giới, thuyết giới] nên mang pháp y này. Lại nữa, pháp y này có 9 bậc: bậc thấp có 3, là 9 điều, 11 điều và 13 điều; bậc vừa có 3, là 15 điều, 17 điều và 19 điều; bậc cao có 3, là 21 điều, 23 điều và 25 điều. Bài kệ mang pháp y này là:
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước tối thượng,
Nay tôi kính tiếp nhận, (*)
Hóa độ cho tất cả.
Án ma ha ca ba bà tra tất đế sa bà ha.
(*) Tỳ ni chép: phụng hành lịnh Như Lai.
(48) Bát, Phạn ngữ bát đa la, thử vân ứng lượng khí, vị thể sắc lượng tam, giai ứng pháp cố. Thể dụng ngõa thiết nhị vật, sắc dĩ dược yên huân trị, lượng tắc phân thượng trung hạ.
Bát, Phạn ngữ là bát đa la, xứ này dịch là ứng lượng khí, là vì thể chất, màu sắc, dung lượng, cả 3 đều thích ứng chánh pháp. Thể chất thì dùng 2 thứ đất và sắt, màu sắc thì bôi thuốc mà xông khói, dung lượng thì chia lớn vừa nhỏ.
(49) Cụ, Phạn ngữ ni sư đàn, thử vân tọa cụ, diệc vân tùy túc y. Khai cụ kệ vân:
Tọa cụ ni sư đàn,
Trưởng dưỡng tâm miêu tánh,
Triển khai đăng thánh địa,
Phụng trì Như Lai mạng.
Án đàn ba đàn ba sa bà ha.
Cụ, Phạn ngữ là ni sư đàn, xứ này dịch là tọa cụ, cũng dịch là tùy túc y. Bài kệ mở cụ là:
Tọa cụ ni sư đàn,
Nuôi lớn lúa tâm tánh,
Mở ra lên thánh địa,
Phụng hành lịnh Như Lai.
Án đàn ba đàn ba sa bà ha.

6/ Sa di Ni Luật Nghi Yếu Lược
(Bản Yếu Lược Về Giới Luật Và Uy Nghi Của Sa di Ni)
Hoa sơn, Long xương tự, tư Luật học Sa môn Độc thể tập tập
(Núi Bảo hoa, chùa Long xương, Sa môn chủ về Luật học, tên Độc thể, biên tập)
(1) Phạn ngữ Sa di ni, thử phiên tức từ nữ, vị tức ác hành từ, tức thế nhiễm nhi từ tế chúng sanh dã. Diệc vân cần sách nữ, diệc vân cầu tịch nữ. Luật nghi giả, thập giới luật chư uy nghi dã.
Phạn tự "Sa di ni", xứ này dịch nghĩa tức từ nữ, là đình chỉ việc ác, thi hành từ bi: đình chỉ những sự ô nhiễm của thế tục mà từ bi tế độ chúng sanh. Cũng dịch cần sách nữ, cũng dịch cầu tịch nữ. Còn "luật nghi" là mười giới luật và các uy nghi.

Thượng Thiên: Giới Luật Môn
(Chương Trước: Phần Giới Luật)
(2) Sa di ni giới văn trung, Phật ngôn, thập lục dĩ thượng ưng tác Sa di ni. Tố vô hà uế, trinh lương hoàn cụ, vô sở hủy nhục, phụ mẫu kiến thính, nãi đắc vi đạo. Tố bất trinh lương, bất ưng vi đạo. Thạch nhân nặc bịnh, bất ưng vi đạo. Dĩ nữ nhân tứ thái nan bảo, duyệt tại tu du phục sanh ác ý, thí như thủy bào nhất khởi nhất diệt, vô hữu thường định, tu thiện quán sát, nãi khả độ ni.
Trong Sa di ni giới văn, Phật dạy, 16 tuổi sắp lên mới nên làm Sa di ni. Vốn không tỳ vết dơ bẩn, trinh tiết và lương thiện thì nguyên vẹn đầy đủ, không bị mỉa mai sỉ nhục, và cha mẹ thuận cho, mới được xuất gia. Vốn không trinh tiết lương thiện, không nên xuất gia. Gái đá, hay bị nhiễm trùng không thể chữa lành, không nên xuất gia. Vì phụ nữ thì cái thói bốc đồng làm cho tâm tính khó giữ duy nhất, thích thú chốc lát, ý xấu lại nỗi lên, y như bong bóng nước cái nỗi cái mất, không có nhất định, nên phải khéo quan sát mới có thể độ cho ni.
(3) Hựu Phật quan kiến nhân gian, thượng chí nhị thập bát thiên, hạ chí thập bát địa ngục, giai khổ vô lạc, cố kiết giới dĩ huấn hậu sanh. Do thị tín nữ thế phát xuất gia, tiên thọ thập chi cấm giới, danh pháp đồng Sa di ni; thứ dữ thị tuế nghiệm học lục pháp, vi Thức xoa ma na. Sĩ tuế mãn, học tịnh, kham nhập Á tăng số giả, tại nhị bộ tăng trung khất thọ Tỳ kheo ni giới.
Lại nữa, Phật xét thấy loài người, và trên suốt 28 tầng trời, dưới đến 18 địa ngục, toàn là khổ sở, không có yên vui, nên qui định giới luật để huấn thị hậu sinh. Do đó, tín nữ thế phát xuất gia thì trước thọ 10 chi cấm giới, gọi là pháp đồng Sa di ni; kế đó, cho 2 năm để xét nghiệm và học tập 6 pháp, gọi là Thức xoa ma na. Chờ số tuổi đầy đủ, sự học trong sáng, có thể đứng vào hàng ngũ Á tăng, thì ở trong 2 bộ đại tăng mà xin thọ Tỳ kheo ni giới.
(4) Tư thành chánh chế. Tý lai ni luật thất tông, thời phong hạ mại, nhi Sa di ni bổn sở thọ giới vị am. Kiêu mạn giả đa khinh nhị bộ đại tăng, ngu muội giả toàn thất chư môn tế hạnh, dục quang đạo hóa dĩ nhiếp ni đồ, nan khả ký dã. Nhân thể thập giới lược minh chế chỉ, tỷ mông học tri sở hướng phương.
Trên đây thật là sự qui định chính thức của Phật. Gần đây, giới luật ni bộ lạc mất tôn chỉ, cái thói thời đại đi xuống quá xa, đến nỗi gọi là Sa di ni mà đối với giới luật của mình lãnh thọ vẫn chưa am tường. Rồi kẻ kiêu mạn thì phần nhiều khinh thường 2 bộ đại tăng người ngu tối thì hoàn toàn đánh mất các môn tế hạnh, nên muốn làm rực rỡ nền pháp hóa để tiếp độ ni đồ, thì cũng thật là điều khó thể mong mỏi. Nhân đó, tôi chọn lấy 10 giới mà tóm tắt thuyết minh những sự chế chỉ, để làm cho người sơ học biết phương trời mà họ phải hướng tới.
(5) Hảo tâm xuất gia giả, thiết ý tuân hành, thận vật vi phạm. Nhiên hậu cận vi Thức xoa ma na, Tỳ kheo ni giới chi giai thê, viễn vi bồ tát giới chi căn bản, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, thứ cơ thành tựu thánh đạo, bất phụ sơ niệm xuất gia chi chí hỷ. Nhược nhạo quảng lãm giả, tự đương tường duyệt Luật tạng toàn điển. Dĩ hạ thập giới điều chương, y Luật tạng Tùy tự hàm bản văn lục xuất, tinh vô tăng giảm.
Những người xuất gia với tâm chí tốt, hãy thiết ý tuân hành, thận trọng đừng để vi phạm. Như vậy mới gần thì làm thềm làm thang cho Thức xoa ma na và Tỳ kheo ni giới, xa thì làm rễ làm gốc cho bồ tát giới. Rồi nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, ngõ hầu thành tựu thánh đạo, không phụ chí hướng lúc mới xuất gia. Nếu ai thích xem cho rộng thì nên tự cứu xét tinh tường toàn bộ [các sách nói về Sa di ni] trong Luật tạng. Điều chương 10 giới dưới đây là y theo bản văn trong hộp chữ Tùy của Luật tạng mà sao chép ra, không thêm bớt gì cả.

Đệ Nhất: Sát Giới
(Thứ Nhất: Giới Sát Sanh)
(6) Sa di ni sơ giới bất đắc sát sanh, từ mẫn quần sanh như phụ mẫu niệm tử, da ai nhuyễn động do như xích tử. Hà vị bất sát? Hộ thân khẩu ý. Thân bất sát nhân vật, kỳ hành suyễn tức chi loại, nhi bất thủ vi, diệc bất giáo nhân, kiến sát bất thực, văn sát bất thực, nghi sát bất thực, vị ngã sát bất thực. Khẩu bất thuyết ngôn đương sát, đương hại, báo oán; diệc bất đắc ngôn tử khoái, sát khoái, mỗ phì, mỗ sấu, mỗ nhục đa hảo, mỗ nhục thiểu dã. Ý diệc bất niệm, đương hữu sở tặc sát ư mỗ khoái hồ, mỗ súc phì, mỗ sấu; ai chư chúng sanh như kỷ cốt tủy, như phụ như mẫu, như tử như thân, đẳng vô sai đặc. Phổ đẳng nhất tâm, thường chí đại thừa, thị vi Sa di ni thỉ học giới dã.
Giới của Sa di ni là không được sát sanh, mà từ mẫn chúng sanh như cha mẹ thương con, thương đến cả cái loài nhuyễn động, coi chúng y như con đỏ. Không sát sanh là thế nào? Là giữ thân miệng ý. Thân thì không giết người, vật, cho đến loại bò ngoằn ngoèo, thở bức tức, bằng cách không tự tay giết, không bảo người giết, thấy giết không ăn, nghe giết không ăn, nghi giết không ăn, biết giết vì mình lại càng không ăn. Miệng thì không nói phải giết, phải hại, trả thù, cũng không được nói chết khoái, giết khoái, con này mập, con kia gầy, thịt này nhiều, thịt kia ít. Ý cũng không nghĩ, phải chi có giặc giết nó thì khoái biết mấy; con này mập, con kia gầy; thương mọi chúng sanh như xương tủy của mình, như cha mẹ, như con cái, như bản thân, không khác chi cả. Nhất tâm thương xót chúng sanh một cách phổ cập, bình đẳng, và thường đặt chí nguyện vào đại thừa, đó là giới phải học tập đầu tiên của Sa di ni.

Đệ Nhị: Đạo Giới
(Thứ Hai: Giới Trộm Cướp)
(7) Sa di ni giới bất đắc đạo thiết. Nhất tiền dĩ thượng, thảo diệp mao mễ, bất đắc thủ dã. Chủ bất thủ dữ bất đắc thủ thủ, khẩu bất ngôn thủ, tâm bất niệm thủ. Mục bất ái sắc, nhĩ bất ái thanh, tỷ bất đạo hương, thiệt bất thâu vị, thân bất tham y, tâm bất thiết dục. Lục tình vô trước, thường lập quyền tuệ, tắc viết bất đạo, thị vi Sa di ni giới dã.
Giới của Sa di ni là không được trộm cướp. Một tiền sắp lên, một lá cỏ, một hạt gạo nhỏ, cũng không được lấy. Người chủ đồ vật không tự tay đưa cho thì thân không lấy đồ vật ấy bằng tay mình, miệng không nói đến sự lấy, ý không nghĩ đến sự lấy. Mắt không ham sắc, tai không mê tiếng, mũi không trộm hơi, lưỡi không cắp mùi, thân không ham áo, ý không cuỗm dục. Sáu căn không đam mê, bằng cách thường đứng trong tuệ giác phương tiện, thì gọi là không trộm cướp, đó là giới của Sa di ni.

Đệ Tam: Dâm Giới
(Thứ ba: Giới Dâm Dục)
(8) Sa di ni bất đắc dâm dật. Hà vị bất dâm? Nhất tâm thanh khiết. Thân bất dâm dật, khẩu bất thuyết dâm, tâm bất niệm dâm, chấp kỷ tiên minh, như hư không phong vô sở ỷ trước. Thân bất hành dâm, mục bất dâm thị, nhĩ bất dâm thính, tỷ bất dâm hương, khẩu bất dâm ngôn, tâm bất tồn dục. Quán thân tứ đại bổn vô sở hữu, kế địa thủy hỏa phong vô ngã, vô nhân, vô thọ, vô mạng, hà sở dâm dật, hà sở trước hồ? Chí không, vô tướng nguyện, thị vi Sa di ni giới dã.
Giới của Sa di ni là không được dâm dật. Không dâm dật là thế nào? Là nhất tâm thanh khiết. Thân không làm dâm dật, miệng không nói dâm dật, ý không nghĩ dâm dật, giữ mình tươi sáng, như gió lướt không gian không vướng mắc đâu cả. Mắt không nhìn sắc dâm, tai không nghe tiếng dâm, mũi không ngửi hơi dâm, lưỡi không nói lời dâm, thân không làm việc dâm, ý không nghĩ điều dâm. Quán thân là tứ đại, vốn không thật có, lại xét chính tứ đại ấy, tức đất nước lửa gió, cũng không phải bản ngã, không phải sinh thể, không phải tồn tại, không phải sinh mạng, vậy dâm dật cái gì, vướng mắc vào đâu? Nên chí nguyện sống bằng ba giải thoát môn là không, vô tướng, vô nguyện, đó là giới của Sa di ni.

Đệ Tứ: Vọng Ngữ Giới
(Thứ Tư: Giới Nói Dối)
(9) Sa di ni giới bất đắc lưỡng thiệt, ác ngôn. Ngôn ngữ an tường. Bất kiến mạc ngôn kiến, bất văn mạc ngôn văn, kiến ác bất truyền, văn ác bất tuyên. Ác ngôn trực ty thường hành tứ đẳng. Vô hữu phi ngôn, ngôn triếp thuyết đạo. Bất đắc luận thuyết tục sự, bất giảng vương giả thần lại tặc sự. Thường thán kinh pháp, bồ tát chánh giới, chí vu đại thừa, bất vi tiểu học. Hành tứ đẳng tâm, thị vi Sa di ni giới dã.
Giới của Sa di ni là không được nói hai lưỡi, nói thô ác. Mà nói năng phải từ hòa, minh bạch. Không thấy đừng nói thấy, không nghe đừng nói nghe, thấy việc xấu thì không loan truyền, nghe điều bậy cũng không tuyên bố. Lời ác thì tránh liền, thường làm 4 vô lượng tâm. Không nói bậy, nói là nói về đạo pháp mãi. Không được nói việc thế tục, không bàn việc ngụy tặc của vua quan. Thường tán thán kinh pháp và giới pháp chính của bồ tát, chí nguyện ở đại thừa chứ không làm theo học lý nhỏ hẹp. Với chí nguyện ấy mà làm 4 vô lượng tâm, đó là giới của Sa di ni.

Đệ Ngũ: Bất ẩm Tửu Giới
(Thứ Năm: Giới Uống Rượu)
(10) Sa di ni giới bất đắc ẩm tửu. Bất đắc thị tửu, bất đắc thường tửu. Tửu hữu tam thập lục thất. Thất đạo phá gia, nguy thân táng mạng, giai tất do chi. Khiên đông dẫn tây, trì nam trước bắc; bất năng phúng kinh, bất kính tam tôn; khinh dị sư hữu, bất hiếu phụ mẫu; tâm bế ý tắc, thế thế ngu si; bất trị đại đạo, kỳ tâm vô thức: cố bất ẩm tửu. Dục ly ngũ ấm, ngũ dục, ngũ cái, đắc ngũ thần thông, đắc độ ngũ đạo, thị vi Sa di ni giới dã.
Giới của Sa di ni là không được uống rượu. Bằng cách không được ham rượu, không được nếm rượu. Rượu có ba mươi sáu lỗi. Lỗi đạo, phá nhà, nguy thân, mất mạng, hết thảy đều do rượu. Kéo bên đông, dắt bên tây, nắm bên nam, vướng bên bắc. Không thể tụng kinh, không kính Tam bảo; khinh dễ thầy bạn, bất hiếu mẹ cha; tâm bít, ý lấp, đời đời ngu si; không gặp đạo lớn, tâm không trí thức: nên đừng uống rượu. Muốn thoát ngũ ấm, ngũ dục và ngũ cái, được chứng ngũ thông, được vượt ngũ đạo, đó là giới của Sa di ni.

Đệ Lục: Bất Trước Hương Hoa Anh Lạc Giới
(Thứ Sáu: Giới Mang Hương, Hoa, Ngọc)
(11) Sa di ni giới bất đắc trì hương hoa tự huân sức; y bị lý lũ bất đắc ngũ sắc; bất đắc dĩ chúng bảo tự anh lạc; bất đắc trước cẩm tú lăng la ỷ hộc. Bất đắc ỷ thị. Đương trước thô phục, thanh hắc mộc lan, cập nê hoàn lý y, đê đầu nhi hành. Dục trừ lục suy, dĩ giới vi hương, cầu tụng thâm pháp dĩ vi chân bảo, tam thập nhị tướng dĩ vi anh lạc, đắc thực chúng hảo dĩ vi bị phục. Nguyện lục thần thông vô ngại, lục độ đạo nhân, thị vi Sa di ni giới dã.
Giới của Sa di ni là không được cầm nắm hương và hoa để xông ủ và trang sức cho mình; áo chăn giày dép không được có năm màu sắc chính; không được lấy các thứ ngọc làm chuỗi ngọc cho mình; không được mặc gấm, gấm thêu năm màu, lụa mỏng có hoa, là dệt bằng tơ mỏng, the lụa có bông hoa, và sa trun. Không được nhìn phục sức y như the lụa có bông hoa. Phải mặc pháp phục bằng vải thô, với màu xanh, đen, mộc lan, và mặc áo trong nê hoàn, cúi đầu mà đi. Muốn trừ lục suy thì phải lấy giới pháp làm hương thơm, cầu học chánh pháp sâu xa làm ngọc thật, lấy ba mươi hai tướng tốt làm chuỗi ngọc, lấy tám mươi tướng phụ đã được bởi gieo trồng thiện căn mà làm đồ khoác đồ mặc. Nguyện sáu thần thông tự tại vô ngại, sáu ba la mật dẫn dắt mọi người, đó là giới của Sa di ni.

Đệ Thất Bất Tọa Cao Quảng Đại Sàng Giới
(Thứ Bảy: Giới Ngồi Giường Cao, Lớn)
(12) Sa di ni giới bất đắc tọa kim ngân cao sàng, ỷ tú cẩm bị, chúng bảo uyển diên. Bất đắc niệm chi. Bất đắc giáo cầu sách hảo sàng tháp tịch, ngũ sắc họa phiến, thượng hảo tiêu phất. Bất đắc trước tý xuyến chỉ hoàn. Trực tín, giới, tàm, quí, thí, bác văn, trí tuệ. Nhất tâm tinh chuyên, thường cầu tam muội dĩ vi sàng tháp; tâm bất động diêu, chúng tuệ tự nhiên, dĩ vi tọa cụ. Thất giác bất chuyển, chí vu đạo tâm, thị vi Sa di ni giới dã.
Giới của Sa di ni là không được ngồi giường ghế cao làm bằng vàng bạc, dùng chăn gấm có bông hoa và đủ cả năm màu, dùng áo lụa đỏ hồng, và tua dải trước hay sau mão mà tất cả đều được đính các thứ ngọc. Không được nghĩ đến những thứ ấy. Không được bảo tìm kiếm giường, giường vừa mà dài, và chiếu, tất cả đều thuộc loại tốt; tìm kiếm cái quạt vẽ đủ năm màu sắc; cái phất bằng lông đuôi chim thượng hảo hạng. Không được mang vòng cánh tay và nhẫn ngón tay. Chánh tín, giữ giới, tự hổ, thẹn người, đem cho, nghe nhiều, lý giải. Nhất tâm tinh chuyên, thường cầu tam muội lấy làm giường phản; tâm không dao động, tuệ giác tự nhiên lấy làm đồ ngồi. Bảy giác chi không dao động, chí nguyện ở Bồ đề tâm, đó là giới của Sa di ni.

Đệ Bát: Bất Ca Vũ Âm Nhạc Giới
(Thứ Tám: Giới Hát Múa Tấu Nhạc)
(13) Sa di ni giới bất đắc thính ca vũ âm nhạc thanh, phách thủ, cổ tiết. Bất đắc tự vi, diệc bất giáo nhân. Thường tự tu thân, thuận hành chánh pháp, bất vi tà hạnh. Nhất tâm qui Phật, tụng kinh, hành chánh, dĩ vi pháp lạc, bất vi tục lạc. Thính kinh tư duy, thâm nhập đại nghĩa. Tự bất hữu tật, bất đắc thừa xa mã tượng. Đương niệm khinh cử bát bất tư nghị thần thông chi đạt, dĩ vi xa thừa độ thoát bát nạn, thị vi Sa di ni giới dã.
Giới của Sa di ni là không được nghe cái tiếng hát múa, tấu nhạc, vỗ tay, đánh nhịp. Không được tự làm, cũng không bảo người. Thường tự tu thân, thuận hành chánh pháp, không theo tà hạnh. Nhất tâm mà qui y Phật, tụng kinh, thực hành tám chánh đạo, và lấy đó làm cái vui Phật pháp, không theo cái vui thế tục. Cái vui Phật pháp như vậy là do nghe kinh pháp thì tư duy, vào sâu nghĩa lý cao lớn. Chính mình không bịnh thì không được cỡi xe, ngựa, voi. Nên nghĩ đến sự cử động nhẹ nhàng, tức sự thông suốt của tám thứ thần thông bất khả tư nghị, lấy đó làm xe cộ để vượt thoát tám nạn, đó là giới của Sa di ni.

Đệ Cửu: Bất Tróc Trì Kim Bảo Giới
(Thứ Chín: Giới Nắm Giữ Vàng Ngọc)
(14) Sa di ni giới bất đắc tích tụ trân bảo, bất đắc thủ thủ, bất đắc giáo nhân. Thường tự chuyên tinh dĩ đạo vi bảo, dĩ kinh vi thượng, dĩ nghĩa vi diệu, giải không vô tướng vô nguyện vi bổn, chí ư tam thoát, bất cầu tham dục. Dục ly cửu não, trú đạo thậm cửu, vô cùng vô cực, vô hữu biên tế, diệc vô sở trú, thị vi Sa di ni giới dã.
Giới của Sa di ni là không được chứa dồn trân bảo, bằng cách không được tự tay mình lấy, không được bảo người lấy. Thường tự tinh chuyên, lấy pháp làm ngọc quí, lấy kinh làm cao tột, lấy nghĩa làm nhiệm mầu, lấy sự lý giải không vô tướng vô nguyện làm căn bản, đạt đến ba cửa giải thoát ấy chứ không thích tham dục. Muốn rời xa chín thứ bức não thì trú ở trong Phật pháp cho lâu, không cùng không tột, không có giới hạn, cũng không đứng lại, đó là giới của Sa di ni.

Đệ Thập: Bất Phi Thời Thực Giới
(Thứ Mười: Giới Ăn Lúc Phi Thời)
(15) Sa di ni giới thực bất thất thời. Thường dĩ thời thực, bất đắc thất độ. Quá nhật trung hậu, bất đắc phục thực. Tuy hữu cam myՠvô cực chi vị, chung bất phục thực, diệc bất giáo nhân phạm, tâm diệc bất niệm. Giả sử vô thượng tự nhiên thực lai, diệc bất đắc thực dã. Nhược trưởng giả, quốc vương, quá nhật trung hậu, thí diệc bất thực. Chung tử bất phạm. Thường tư thiền định; nhất thiết ẩm thực, tuy hữu sở thực, tài tự chi mạng. Dục linh nhất thiết giải thâm viễn nguyện, đắc thập chủng lực dĩ vi ẩm thực, thị vi Sa di ni giới dã.
Giới của Sa di ni là ăn không trái giờ. Thường ăn đúng giờ, không được trái chừng đỗi. Sau lúc giữa ngày, không được ăn nữa. Dẫu có cái vị ngọt ngon vô cùng cũng quyết định không ăn lại, không bảo người ăn, tâm cũng không nghĩ đến. Giả sử có thức ăn tự nhiên và tột bực, cũng không được ăn. Trưởng giả hay quốc vương, sau lúc giữa ngày, cúng cho cũng không ăn. Trọn đời đến chết, không vi phạm giới này. Thường tư duy thiền định; còn mọi thức uống ăn, dầu dùng đến cũng chỉ đủ để giữ mạng sống mà thôi. Là muốn làm cho mọi người thấu hiểu chí nguyện sâu xa, thực hiện mười lực để làm thức uống ăn, đó là giới của Sa di ni.

Hạ Thiên: Uy Nghi Môn
(Chương Sau: Phần Uy Nghi)
(16) Phật chế, ni chúng luật nghiêm đại tăng, do kỳ chánh pháp hệ tăng giảm cố. Tường khảo thánh điển, kỳ chứ tự minh. Nhược Sa di ni tự bất tri ưng sở thi hành, bất hứa cận viên, dĩ đại Tỳ kheo ni sự cánh nan tác cố. Tu linh thục học tri dĩ, nãi hứa thọ cụ. Như bất tri, nhi tức vị thọ cụ giới giả, tắc vị Phật pháp dị hành, Á tăng dị tác. Thị cố Sa di ni ưng tiên sùng huấn.
Phật qui định, ni chúng thì giới luật càng phải nghiêm như đại tăng, lý do là vì chánh pháp của Phật liên hệ đến họ mà tăng giảm. Xét rõ thánh điển, sẽ thấy sự qui định ấy tự thuyết minh như vậy. Đến như Sa di ni mà tự họ không biết việc họ phải làm, thì không cho lãnh thọ giới pháp cận viên, vì việc đại Tỳ kheo ni lại càng khó làm. Phải bảo họ học thuộc, thấu hiểu đã, mới cho lãnh thọ giới pháp cụ túc. Như họ không thấu hiểu mà vẫn tức thì truyền thọ cho họ giới pháp cụ túc, thì người ta bảo Phật pháp dễ tu, Á tăng dễ làm. Vì lý do ấy, Sa di ni trước hết phải tôn trọng sự huấn thị trên đây.
(17) Dĩ hạ điều tắc, ư Đại ái đạo kinh, Sa di ni giới văn, cập Đệ nhị phần Tỳ kheo ni tùy luật uy nghi trung tiết xuất. Hựu Vân thê Sa di yếu lược nội, phàm Sa di ni khả thông dụng giả, diệc thể tập chi. Lương dĩ mạt pháp ni luân tình đa giải đãi, văn phồn tắc yểm, tịnh khủng văn tự sanh thiển, do thị san phồn toát yếu, nhưng phân loại tụ dĩ tiện độc học. Gian hữu vị bị, tùng nghĩa bổ nhâểp nhất nhị. Kỳ nhạo quảng lãm giả, tự đương kiểm duyệt toàn thư.
Những điều tắc dưới đây, từ trong kinh Đại ái đạo, văn Sa di ni giới, và tùy luật uy nghi của Phần thứ hai nói về Tỳ kheo ni, tỉa bớt mà rút ra. Thêm nữa, trong sách Sa di luật nghi yếu lược của ngài Vân thê, phàm điều gì Sa di ni có thể thông dụng thì cũng lượm lặt mà tập hợp. Vì lẽ ni chúng thời kỳ mạt pháp lòng lắm giải đãi, nghe nhiều thì chán, lại sợ văn tự sống sít, do đó, tôi tước bớt phồn toái mà tóm lấy cốt yếu, nhưng vẫn phân loại để tiện cho việc đọc và học. Tựu trung, có chỗ nào chưa đủ, tôi theo ý nghĩa mà phụ thêm một vài điều. Ai thích xem cho rộng thì nên tự cứu xét toàn văn các sách [trên đây].

Kính Tam Bảo Đệ Nhất
(Thứ 1, Kính Tam Bảo)
(18) Đương kính Phật, chí tâm vô tà, trì đầu não trước địa, thường tự sám hối túc thế tội ác. Thường kính Pháp, tâm tồn ư đạo, từ hiếu ư kinh. Thường kính Tăng, tâm bình bất phế, chí thành hữu tín. Bất đắc nhân tiểu sự sân xả Tam bảo. Bất đắc trì Phật tượng chí đại tiểu tiện xứ. Bất đắc trước bất tịnh lý nhập Phật điện cập Tăng tháp trung. Thỉ ư xuất gia thọ giới, tận kỳ chung thân thọ mạng, thường đương thời khắc hệ ức Tam bảo.
Phải thường kính Phật, hết lòng mà không theo ai, đem đầu não đặt sát đất để thường tự sám hối tội ác đời trước. Thường kính Pháp, tâm dồn nơi đạo, từ hiếu với kinh. Thường kính Tăng, lòng bình tĩnh, không từ bỏ, chí thành tin tưởng. Không được nhân việc nhỏ mà giận bỏ Tam bảo. Không được mang tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện. Không được mang giày dép dơ bẩn vào trong điện Phật và tháp Tăng. Bắt đầu từ lúc xuất gia thọ giới, cuối cùng đến lúc kết thúc đời sống, giờ khắc nào cũng thường xuyên tập trung sự nghĩ nhớ lại nơi Tam bảo.
(19) Triêu mộ lễ Phật phát nguyện, nguyện tại tại sanh xứ cụ trượng phu tướng, đồng chân xuất gia, tức năng thân cận Tam bảo, cúng dường thừa sự. Ư cận trú nữ tịnh đàn việt tiền, ưng đương tán thán Tam bảo công đức, sanh tăng nhân tín. Phàm trước nhất y, xan nhất thực, ẩm nhất tương, thường bất vong Phật ân; trước tân y lý thời tiên đương lễ Phật, thọ ẩm thực thời tiên đương cúng Phật, hằng tồn tàm quí, khởi tri trúc niệm.
Sớm tối lạy Phật phát nguyện, nguyện sanh ra ở đâu cũng đủ tướng trượng phu, đồng chân xuất gia, liền biết thân cận Tam bảo mà cúng dường phụng sự. Trước cận trú nữ và đàn việt, phải tán thán công đức của Tam bảo, làm phát sanh và tăng thêm tín tâm cho họ. Mặc một cái áo, ăn một bữa cơm, uống một chén nước, đều luôn luôn không quên ơn Phật; khi mang áo giày mới phải lạy Phật trước, lúc hưởng thụ uống ăn phải cúng Phật trước, thường hổ thẹn mà khởi niệm tri túc.

Kính Đại Sa môn Đệ Nhị
(Thứ 2, Kính Đại Sa môn)
(20) Bất đắc hoán nhị bộ đại tăng tự. Bất đắc đạo thính nhị bộ đại tăng thuyết giới. Bất đắc chuyển hành thuyết nhị bộ đại tăng quá. Bất đắc kiến nhị bộ đại tăng quá bất khởi, trừ độc kinh thời, bịnh thời, thế phát thời, phạn thời, tác chúng sự thời. Bất đắc cố tác dị ngữ xúc não nhị bộ đại tăng. Bất đắc vô căn sân báng nhị bộ đại tăng.
Không được gọi tên chữ của đại tăng hai bộ. Không được lén nghe đại tăng hai bộ thuyết giới. Không được nói chuyền lầm lỡ của đại tăng hai bộ. Không được thấy đại tăng hai bộ đi qua mà không đứng dậy, trừ lúc đọc kinh, lúc bịnh, lúc cắt tóc, lúc ăn cơm, lúc làm việc tăng chúng. Không được cố nói lời nói khác lạ để xúc não đại tăng hai bộ. Không được vì tức giận mà phỉ báng vô căn cứ đối với đại tăng hai bộ.
(21) Bất đắc ư nhị bộ đại tăng trung khiêu toa bỉ thử. Bất đắc cố não nhị bộ đại tăng, giả vấn kinh luật. Bất đắc mạ lị nhị bộ đại tăng. Bất đắc ư nhị bộ đại tăng tiền hành. Bất đắc khinh vũ nhị bộ đại tăng, cố ý ư tiền hý tiếu, hiệu kỳ ngữ ngôn hình tướng hành bộ. Bất đắc tứ bình xứ, kiến nhị bộ đại tăng quá chỉ bối. Hành thời, nhược phùng nhị bộ đại tăng, đương hạ đạo đê thủ bàng lập, cung nhượng khứ dĩ nhiên hậu phương hành.
Không được đối với đại tăng hai bộ mà khiêu khích xúi dục bên kia bên này. Không được cố làm phiền não đại tăng hai bộ bằng cách làm bộ hỏi kinh hỏi luật. Không được mắng chửi đại tăng hai bộ. Không được đi trước mặt đại tăng hai bộ. Không được khinh lờn đại tăng hai bộ, cố ý giỡn cười trước mặt, nhái giọng nói, hình dáng và bước đi của các ngài. Không được rình chỗ khuất để nhìn đại tăng hai bộ đi qua mà chỉ trỏ sau lưng. Khi đi, nếu gặp đại tăng hai bộ thì phải ở chỗ thấp, cúi đầu, đứng một bên, kính nhường các ngài đi rồi mới đi.

Sự Sư Đệ Tam
(Thứ 3, Thờ Thầy)
(22) Thị hòa thượng a xà lê như thị Phật. Đương kính ư sư, thường phụ cận chi, như pháp luật hành. Đương như sư giáo, thường ưng hòa thuận. Thường đương tảo khởi, vật hậu sư khởi; tự cảnh kỳ tâm, vật linh sư hô. Tảo khởi thời, đương tiên thanh tịnh, trước pháp y lễ Phật, Pháp, khước lễ sư. Dục nhập hộ, tiên đương tam đàn chỉ. Lễ sư thời, khứ lục xích, vấn tấn, khước hành xuất hộ. Sư tọa thiền bất ưng tác lễ, sư kinh hành bất ưng tác lễ, sư thọ thực, sư sơ xỉ, sư tháo dục, sư thụy tức đẳng, bất ưng tác lễ. Dục lễ bái, nhược sư chỉ chi, nghi thuận mạng, vật bái. Sư bế hộ, bất ưng hộ ngoại tác lễ; dục nhập hộ tác lễ, ưng đàn chỉ tam biến, sư bất ứng, ưng khứ.
Chiêm ngưỡng hòa thượng, xà lê, như chiêm ngưỡng Phật. Phải kính thầy, thường gần gũi thầy để hành trì đúng pháp đúng luật. Phải giữ đúng huấn dụ của thầy, với sự kính thuận thường xuyên. Thường nên dậy sớm, đừng dậy sau thầy; tự cảnh giác tâm mình, đừng để thầy phải gọi dậy. Sáng sớm, khi thức dậy, phải trước hết súc miệng và gột rửa sạch sẽ, mặc pháp y lạy Phật lạy Pháp rồi lui ra lạy thầy. Muốn vào cửa, trước hết nên đàn chỉ ba lần. Khi lạy thầy thì lạy cách sáu thước xưa, hỏi thăm sức khỏe rồi đi lui mà ra cửa. Thầy ngồi thiền không nên lạy, thầy kinh hành không nên lạy, thầy thọ thực, thầy đánh răng, thầy rửa tắm, thầy ngủ nghỉ vân vân, không nên lạy. Muốn lạy mà thầy ngăn cản thì nên thuận theo mạng lịnh của thầy, đừng lạy. Thầy đóng cửa, không nên ở ngoài cửa mà lạy; muốn vào cửa mà lạy thì phải đàn chỉ ba lần, thầy không trả lời thì nên đi.
(23) Nhược sử xuất bất tịnh khí, bất đắc thóa, bất đắc sân nhuế. Đương thành tín ư sư, tâm trực hữu thật. Từ hiếu ư sư, tâm tồn tả hữu, bất khứ thực tức. Nhược hành quốc trung kiến quái dị chi sự, đương khởi ngữ sư, vấn kỳ biến dị. Tùng sư thọ kinh, đương đoan tâm chí thật, thân tâm khẩu ý vô sai đặc như mao phát. Sư thiết sử hành sở chí, đương tật khứ tật hoàn; thiết hữu nhân vấn, Sa di ni, nhữ sư tại phủ, đương mặc nhiên trực khứ, bất đắc cọng tương ứng tri. Thiết hữu quá ác, tầm đương hướng sư thú quá, ngôn dĩ vô trạng. Nhất thiết đương tín hướng ư sư; nhược nhân thuyết sư quá, tức đương ha chỉ. Trì sư ẩm thực, giai đương lưỡng thủ bổng; thực tất, liễm khí đương từ từ. Thị sư, bất đắc đối diện lập, bất đắc cao xứ lập, bất đắc thái viễn lập; đương linh sư tiểu ngữ đắc văn, bất phí tôn lực.
Nếu bảo đổ đồ bất tịnh thì không nên nhổ nước miếng, không nên giận tức. Phải chân thành đối với thầy, lòng ngay thẳng, chắc thật. Hãy từ hiếu với thầy, quấn quýt bên thầy, không rời bữa ăn giấc nghỉ. Đi trong quốc gia, thấy sự quái lạ thì nên trình bạch với thầy, hỏi thầy sự quái lạ ấy. Theo thầy học kinh, phải nghiêm chỉnh tâm trí, cùng tột chân thật, thân tâm miệng ý không làm khác đi chút nào. Thầy bảo đi đến chỗ nào thì nên đi mau về mau; nếu có ai hỏi, Sa di ni, thầy của cô còn không, thì nên yên lặng đi thẳng, không được trả lời cho họ biết. Giả sử có tội ác, thì phải liền liền đến thầy thú tội, nói ra rồi không còn tội trạng nữa. Hoàn toàn tin tưởng nơi thầy; nếu ai nói thầy có lỗi thì nên trách liền cho họ thôi đi. Cầm đồ uống đồ ăn của thầy đều nên bưng hai tay. Ăn rồi, dọn đồ thì phải từ từ. Hầu thầy, không được đứng đối diện, không được đứng chỗ cao, không được đứng quá xa; phải đứng sao để thầy nói nhỏ mình nghe được, khỏi phí sức thầy.
(24) Nhược thỉnh vấn Phật pháp, đương chỉnh y lễ bái, hiệp chưởng đế thính, tư duy thâm nhập. Nhược vấn gia thường sự, bất tu lễ bái, đãn đoan lập sư trắc, cứ thật thân bạch. Sư nhược thân tâm quyện, giáo khứ ưng khứ, bất đắc tâm tình bất hỷ, hiện ư nhan sắc. Bất đắc hý tọa sư tòa, cập ngọa sư sàng, trước sư y mạo đẳng. Sự tật bịnh, thỉ chung liệu lý, phòng thất bị nhục, dược nhĩ chúc thực đẳng, nhất nhất dụng tâm điều trị. Trì y, thọ lý, tẩy nhiễm, hồng sái đẳng, cụ ư Luật trung, tư bất phiền lục.
Nếu xin hỏi Phật pháp thì phải sửa y, lễ bái, chắp tay nghe kyլ suy nghĩ vào sâu. Nếu hỏi việc thường của trú xứ thì không cần lễ bái, chỉ đứng ngay thẳng cạnh thầy, cứ thật trình bày. Nếu thầy mệt mỏi cơ thể hay tâm trí, bảo đi thì nên đi, không được lòng dạ không vui, hiện ra sắc mặt. Không được ngồi chơi chỗ ngồi của thầy, và nằm chơi giường thầy, dùng chơi áo mão của thầy, vân vân. Thầy đau ốm thì lo liệu từ đầu đến cuối. Phòng thất, chăn nệm, thuốc thang, cháo cơm vân vân, nhất nhất chú ý coi sóc. Cầm áo, đưa giày, giặt bẩn, sấy phơi, vân vân, thì dạy đủ cả trong Luật, ở đây không phiền sao chép.
(25) Phàm thị sư, bất mạng chi tọa bất cảm tọa, bất vấn bất cảm đối, trừ tự hữu sự dục vấn. Phàm thị lập, bất đắc ỷ bích kháo trác, nghi đoan thân tề túc trắc lập. Sư hữu sở sử linh, nghi cập thời tác biện, bất đắc vi mạn. Phàm thụy miên, bất đắc tiên sư, trừ hữu bịnh duyên, bạch sư doãn khế. Nhân vấn sư danh, đương vân thượng mỗ hạ mỗ. Bất đắc kiều túc xoa yêu, an nhiên ư sư tiền tọa ngọa. Như mạng tọa, sư khởi, tức ưng tốc khởi. Thủ hộ sư vật như kỷ thân mạng, bất đắc tư tự dữ nhân. Bất đắc ác nhãn thị sư.
Phàm hầu thầy, thầy không bảo ngồi thì không dám ngồi, không hỏi thì không dám thưa, trừ mình có việc muốn hỏi. Phàm đứng hầu thì không được dựa vách, tựa ghế, mà nên mình ngay thẳng, chân tề chỉnh, đứng cạnh thầy. Thầy có sai khiến gì thì nên kịp thời làm cho xong, không được trái, nhác, hay khinh thường. Phàm ngủ nghỉ, không được trước thầy, trừ lúc có bịnh, bạch thầy cho phép nghỉ ngơi. Ai hỏi tên thầy, nên nói trên chữ x, dưới chữ x. Không được kiễng chân tréo lưng, an nhiên nằm ngồi ở trước mặt thầy. Như thầy bảo ngồi thì khi thầy đứng dậy, mình phải tức tốc đứng dậy. Giữ đồ của thầy như giữ thân mạng của mình, không được theo ý riêng mà tự cho người. Không được nhìn thầy bằng con mắt ác cảm.
(26) Bất đắc ly sư tự trú. Nhược sư mạng chung, nhược sư hữu duyên viễn hành bất đắc tùy khứ, ưng lễ bạch bổn sư ưng y chỉ hà nhân. Đương như sư mạng, tức y chỉ trú, nhất thiết hoàn đồng sự sư pháp vô dị. Nhược sư bất chỉ thị tiện mạng chung, tu cánh trạch lương đạo y chỉ nhi trú. Nhược sư phá giới, phá kiến, bị tăng như pháp như luật trị tẩn, diệc ưng biệt mích minh sư y chỉ nhi trú, bất đắc túng tình tự dụng.
Không được rời thầy ở riêng. Nếu thầy mạng chung, nếu thầy có duyên sự đi xa mà không được đi theo, thì phải lạy bạch thầy bổn sư hỏi nên y chỉ thầy nào. Phải đúng như mạng lịnh của thầy, y chỉ mà ở, và tất cả lại làm giống với cách thờ thầy, không khác chi cả. Nếu thầy không chỉ thị mà mạng chung ngay, thì phải lại chọn bậc lương đạo y chỉ mà ở. Nếu thầy phá giới, phá kiến, bị đại tăng y pháp y luật trị đuổi, thì cũng phải tìm riêng vị minh sư, y chỉ mà ở, không được buông thả tự chuyên.
(27) Bất đắc y chỉ Tỳ kheo tăng trú. Bất đắc dữ Sa di đồng trú. Bất đắc tùy sư trú du cảnh, hoa viên. Bất đắc tùy sư trú thần miếu, phần am. Sư nhược trú, đương tác lễ, như luật gián khuyến. Hạ an cư thời, đương tùy sư cận đại Tỳ kheo giới trú, bất đắc ư vô Tỳ kheo trú xứ hạ an cư. Sư hoặc hữu sở thí, đương cung kính đảnh lễ nãi thọ; nhược dĩ hữu giả đương vân hữu, bất khả vọng thọ.
Không được y chỉ Tỳ kheo tăng mà ở. Không được cùng Sa di ở chung. Không được theo thầy ở chỗ du ngoạn, chỗ vườn hoa. Không được theo thầy ở miếu thần, am mộ. Nếu thầy ở, thì phải lạy mà khuyên can như Luật đã dạy. Lúc hạ an cư thì phải theo thầy ở gần khu vức đại Tỳ kheo, không được ở chỗ không có Tỳ kheo ở mà hạ an cư. Hoặc thầy có cho gì thì nên cung kính đảnh lễ mới nhận; nếu thứ mình đã có thì nên nói có, không được vọng nhận.

Tùy Sư Xuất Hành Đệ Tứ
(Thứ 4, Theo Thầy Đi Ra)
(28) Bất đắc quá lịch nhân gia. Bất đắc chỉ trú đạo biên cọng nhân ngữ. Bất đắc tả hữu cố thị, đương đê thủ bình mục tùy sư hậu. Đáo đàn việt gia, đương trụ nhất diện, sư giáo tọa nãi tọa. Đáo tha tự, sư lễ Phật hoặc tự lễ, bất đắc thiện tự minh khánh. Sư thọ trai, đương lập xuất sanh, trai tất, phục đương thị lập thâu sấn.
Không được ghé qua nhà người khác. Không được dừng ở bên đường cùng người nói chuyện. Không được ngoái nhìn hai bên, mà nên cúi đầu, mắt nhìn ngang tầm mắt, đi theo sau thầy. Đến nhà đàn việt, nên đứng một bên thầy, thầy dạy ngồi mới ngồi. Đến tự viện khác, thầy lạy Phật hoặc mình lạy, đều không được tự ý đánh khánh. Thầy thọ trai thì phải đứng hầu xuất sanh, thọ trai xong lại phải đứng hầu thâu nhận đồ hiến cúng.
(29) Nhược duyên vãng, đương dữ tam nhân cọng hành. Đương dữ đại ni cọng hành. Nhược dữ ưu bà di cọng hành, ưng trước pháp y hành, trước y đương tề chỉnh. Bất đắc phản sao y hành. Bất đắc y triền cảnh hành. Bất đắc khiêu hành. Bất đắc thủ xoa yêu hành. Bất đắc diêu thân hành. Bất đắc trạo tý hành. Bất đắc hý tiếu hành.
Nếu có duyên cớ, ra đi không có thầy thì phải cùng ba người đi chung. Hoặc phải cùng vị ni sư lớn đi chung. Nếu cùng ưu bà di đi chung thì phải mang pháp y mà đi, và mang pháp y thì phải tề chỉnh. Không được đi mà vắt trái y ra phía sau. Không được đi mà y quấn cổ. Không được đi mà nhảy. Không được đi mà chéo tay sau lưng. Không được đi mà lắc mình. Không được đi mà vung cánh tay. Không được đi mà giỡn cười.
(30) Tùy sư hậu hành, bất đắc tiễn sư hình ảnh. Đạo bàng, ngộ hữu hoa quả, bất đắc thiện trích. Tùy sư hà nhĩ vãng hoàn, bất đắc oán thanh ngôn khổ, hiện bì lao tướng. Nhược đạo phùng nam tử, bất đắc thị ức, đương quán không, tác bất tịnh tưởng. Nhược lộ kiến tục kỳ chi sự, bất đắc thất thanh tán mỹ
Đi theo sau thầy, không được dẫm lên bóng của thân hình thầy. Bên đường, gặp hoa trái, không được tự ý hái lấy. Theo thầy đi về xa gần, không được oán rằng khổ quá, lộ vẻ mệt nhọc. Trên đường nếu gặp con trai thì không được nhìn và nhớ, phải quán không, tu cái tưởng bất tịnh. Trên đường nếu thấy sự kỳ lạ của thế tục thì không được buột miệng khen đẹp.

Nhập Chúng Đệ Ngũ
(Thứ 5, Nhập Chúng)
(31) Bất đắc tranh tọa xứ. Bất đắc ư tòa thượng diêu tương hô ngữ tiếu. Chúng trung hữu thất nghi, đương ẩn ác dương thiện. Bất đắc phạt lao, hiển kỷ chi công. Bất đắc dữ đại Tỳ kheo, đại Tỳ kheo ni cọng tọa. Bất đắc tướng hình tiếu. Bất đắc cao thanh tỷ thế ẩu thổ. Bất đắc Phật tháp tứ biên đại tiểu tiện, sử xú khí lai nhập. Bất đắc hướng Phật tháp đại tiểu tiện. Bất đắc hướng Phật tháp thư cước tọa. Khiết trà thang thời, bất đắc chích thủ tác lễ. Bất đắc đa ngôn, đa tiếu, cập kha khiếm đương dĩ y tụ yểm khẩu.
Không được tranh chỗ ngồi. Không được trên chỗ ngồi mà gọi vói nhau, nói hay cười. Trong chúng có ai mất uy nghi, nên ẩn ác dương thiện. Không được khoe cái mệt để tỏ cái công của mình. Không được cùng đại Tỳ kheo và đại Tỳ kheo ni ngồi chung. Không được coi tướng hình dáng mà cười. Không được lớn tiếng hỉ mũi, nôn ọe, khạc nhổ. Không được bốn phía tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện, làm cho hơi hôi bay vào tháp. Không được hướng về phía tháp Phật mà đại tiện tiểu tiện. Không được hướng về phía tháp Phật duỗi cẳng mà ngồi. Khi uống trà nước, không được dùng một tay còn lại mà thi lễ. Không được nói nhiều, cười nhiều, và ngáp thì phải lấy tay áo bưng miệng.
(32) Cúng Phật hoa, thủ khai viên giả, bất đắc tiên khứu. Trừ ủy giả phương cúng tân giả. Đy giả bất đắc khí địa tiễn đạp, nghi trước bình xứ. Ưng vị đại Tỳ kheo ni cấp dương chi, tháo thủy đẳng, tùy lực năng vi, tức đương tác chi, bất đắc thâu an, đương cầu thắng phước. Nhược văn hô thời tức niệm Phật ứng chi, bất đắc vân hữu vân thị. Phàm thập di vật, đương bạch chủ sự Tỳ kheo ni. Phàm thượng Phật điện, đương túc dung nghi, bất đắc phóng ý tự tiện. Bất đắc ác khẩu tương điều, bất đắc giáo nhân tác bất thiện ngữ.
Hoa cúng Phật thì lấy thứ nở vừa, và không được ngửi trước. Loại trừ thứ héo mới cúng thứ mới. Thứ héo cũng không được bỏ xuống đất dẫm đạp lên, mà nên đặt ở chỗ khuất. Nên vì đại Tỳ kheo ni mà cung cấp tăm dương chi, nước rửa vân vân, tùy sức có thể làm gì là nên làm, không được cầu an mà nên cầu cái phước thù thắng. Nếu nghe gọi thì tức khắc niệm Phật mà trả lời, không được nói có đây hay nói tôi đây. Phàm nhặt của rơi thì phải bạch vị Tỳ kheo ni chủ sự. Phàm lên điện Phật, phải nghiêm kính hình dung và cử chỉ, không được buông thả tự tiện. Không được dùng lời nói thô độc mà giễu chọc nhau, không được bày cho người nói lời không tốt.
(33) Bất đắc tọa thị đại chúng lao vụ, tại thâu an. Bất đắc tư thủ chiêu đề trúc mộc, hoa quả, sơ thái, nhất thiết ẩm thực cập nhất thiết khí vật đẳng. Phàm tự xưng, đương cử nhị tự pháp danh, bất đắc vân ngã cập mỗ giáp. Bất đắc nhân tiểu sự tranh chấp. Nhược đại sự nan nhẫn giả, diệc tu tâm bình khí hòa, dĩ lý luận biện; bất khả tắc từ nhi khứ. Nhược động khí xuất thô tức phi Sa di ni. Nhập đại tăng đường, tiên lễ thánh tăng tượng, thứ hành thập phương lễ. Nhược kiến Thức xoa ma na cập Sa di, diệc ưng tác lễ.
Không được ngồi nhìn đại chúng làm việc mệt nhọc, mà mình tránh, nhác, cầu an. Không được lấy riêng của chiêu đề như tre cây, hoa trái, rau lá, mọi thứ đồ uống đồ ăn, mọi thứ đồ vật vân vân. Phàm tự xưng thì nên nói hai chữ pháp danh, không được nói ta hay nói xx. Không được nhân việc nhỏ mà tranh chấp. Nếu việc lớn khó nhẫn thì cũng phải tâm bình tĩnh, khí ôn hòa, lấy lẽ thảo luận; không được thì từ mà đi. Nếu nỗi giận nói thô thì không phải là Sa di ni. Vào đại tăng đường, trước lạy tượng thánh tăng, kế làm lễ mười phương tăng chúng. Nếu thấy Thức xoa ma na và Sa di, thì cũng nên thi lễ.

Tùy Chúng Thực Đệ Lục
(Thứ 6, Theo Chúng Thọ Thực)
(34) Văn kiền chùy thanh, tức đương chỉnh y phục. Lâm thực chú nguyện, giai đương cung kính. Xuất sanh, phạn bất quá thất liệp, miến bất quá nhất thốn, man đầu bất quá chỉ giáp hử; đa tắc vi tham, thiểu tắc vi xan; kỳ dư sơ thái, đậu hủ bất xuất. Phàm xuất sanh thời, mặc niệm kệ vân:
Nhữ đẳng quỉ thần chúng,
Ngã kim thí nhữ cúng,
Thử thực biến thập phương,
Nhất thiết quỉ thần cọng.
Phàm ẩm thực, tác ngũ quán tưởng: nhất kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ; nhị thỗn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng; tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông; tứ chánh sự lương dược, vị liệu hình khô; ngũ vị thành đạo cố, phương thọ thử thực.
Nghe tiếng kiền chùy là phải chỉnh đốn y phục. Lúc ăn, chú nguyện thì phải cung kính. Xuất sanh thì cơm không quá bảy hạt, bún không quá một tấc, bánh không quá cỡ móng tay; nhiều là tham, ít là lẫn; ngoài ra, rau lá và đậu hủ không xuất sanh. Phàm khi xuất sanh, hãy niệm thầm bài kệ sau đây:
Chúng quỉ thần các người,
Nay tôi cho cúng phẩm,
Cúng phẩm này khắp cả,
Quỉ thần cùng hưởng thụ.
Sắp ăn uống, phải làm năm quán tưởng: một, xét kể công lao nhiều ít và ước lượng lý do của thực phẩm; hai, nghĩ kỹ đức hạnh của mình đủ hay thiếu để ứng thọ sự cúng dường; ba, đề phòng tâm lý, tránh những tội lỗi mà tham sân si vẫn làm chủ yếu; bốn, chính vì lấy thực phẩm làm dược phẩm tốt để trị liệu thân hình khô yếu; năm, vì thành đạo nghiệp mới ứng thọ thực phẩm này.
(35) Vô ha thực hảo ác. Bất đắc dĩ thực tư sở dữ, nhược trích dữ cẩu. Lai ích thực, bất đắc ngôn bất dụng; nhược dĩ bão, đương dĩ thủ nhượng khước chi. Bất đắc trảo đầu, sử phong tiết lạc lân bát trung. Bất đắc hàm thực ngữ. Bất đắc tiếu đàm tạp thoại. Bất đắc tước thực hữu thanh. Như khiêu nha, dĩ tụ yểm khẩu. Thực trung hoặc hữu trùng nghị, nghi mật yểm tàng chi, mạc linh lân đơn kiến sanh nghi tâm. Đương nhất tọa thực, bất đắc thực ngật, ly tòa, cánh tọa thực. Bất đắc thực ngật, dĩ thủ chỉ quát oản bát thực. Phàm thực, bất đắc thái tốc, bất đắc thái trì. Hành thực vị chí, bất đắc sanh phiền não. Hoặc hữu sở nhu, mặc nhiên chỉ thọ, bất đắc cao thanh đại hoán. Bất đắc oản bát tác thanh. Bất đắc thực tất tiên khởi. Nhược vi tăng chế, văn bạch chùy, bất đắc kháng cự bất phục. Phạn trung hữu cốc, khử bì thực chi. Bất đắc kiến mỹ vị sanh tham tâm, tứ khẩu thực. Bất đắc thiên chúng thực.
Không được la rầy đồ ăn tốt xấu. Không được lấy đồ ăn cho riêng, hoặc trích cho chó. Người đến thêm đồ ăn, không được bảo không dùng; nếu no rồi thì phải lấy tay từ khước. Không được lấy móng tay gãi đầu, làm cho gió thổi hắt mạt vụn rơi trong bát của người ngồi bên cạnh. Không được ngậm đồ ăn mà nói. Không được cười bàn chuyện tạp. Không được nhai đồ ăn ra tiếng. Muốn khêu răng, phải lấy tay áo che miệng. Trong đồ ăn hoặc có sâu kiến, nên kín đáo che giấu đi, đừng để người ngồi đơn bên cạnh thấy, sanh nghi ngại. Phải ngồi ăn một lần mà thôi, không được ăn xong, rời chỗ ngồi rồi, lại ngồi ăn nữa. Không được ăn xong, lấy ngón tay vét chén bát mà ăn. Phàm ăn, không được quá mau, không được quá chậm. Người đi thêm đồ ăn chưa đến, không được sanh phiền não. Hoặc có cần gì, thì yên lặng dùng ngón tay mà trao ý, không được lớn tiếng gọi to. Không được khua chén bát ra tiếng. Không được ăn rồi dậy trước. Nếu trái qui chế tăng chúng, nghe bạch kiền chùy, không được kháng cự bất phục. Trong cơm có lúa thì bỏ vỏ mà ăn. Không được thấy mỹ vị thì sanh tham tâm, phóng túng miệng mà ăn. Không được ăn riêng tăng chúng.
(36) Thọ thực thời, tả thủ trì bát, hữu phủ phò duyên. Thực vị tất, bất đắc tiên khởi; tu sĩ kiết trai, đồng chúng nhi khởi. Ngọ hậu, bất đắc vọng ức kỳ thực. Đương chỉ tham niệm, cẩn tuân pháp luật, ninh tử bất thực. Bất đắc tự súc túc thực. Bất đắc vị tha nhân súc túc thực. Bất đắc giáo dư Sa di ni phi thời thực.
Khi thọ thực, tay trái bưng bát, tay phải dựa mà giữ bát. Nghi thức thọ thực chưa hoàn tất, không được dậy trước; phải đợi kiết trai, đồng chúng mà dậy. Sau giờ ngọ, không được vọng nhớ sự ăn. Phải chận tham tâm, kính tuân giới luật, thà chết chứ không ăn phi thời. Không được tự cất đồ ăn đêm. Không được cất đồ ăn đêm cho người khác. Không được bày cho Sa di ni khác ăn phi thời.

Lễ Bái Đệ Thất
(Thứ 7, Lễ Bái)
(37) Lễ bái, bất đắc chiếm điện trung ương, thị trú trì vị. Hữu nhân lễ Phật, bất đắc hướng bỉ nhân đầu tiền kính quá. Phàm hiệp chưởng, bất đắc thập chỉ sâm si, bất đắc trung hư, bất đắc tương chỉ sáp tỷ trung, tu bình hung, cao đê đắc sở. Bất đắc phi thời lễ bái, như dục phi thời lễ, tu đãi nhân tịnh thời. Sư lễ Phật, bất đắc dữ sư tịnh lễ, đương tùy hậu viễn bái. Sư bái nhân, bất đắc dữ sư đồng bái. Tại sư tiền, bất đắc dữ đồng loại tương lễ. Tại sư tiền bất đắc thọ nhân lễ. Kỷ thủ trì kinh tượng, bất đắc vị nhân tác lễ. Phàm lễ bái, tu tinh thành tác quán. Giáo liệt thất chủng lễ, bất khả bất tri.
Lễ bái, không được chiếm chỗ chính giữa điện Phật, vì đó là vị trí của vị trú trì. Có người lạy Phật, không được hướng tới trước đầu người ấy mà đi tắt - Phàm chắp tay, không được mười ngón so le, không được trống rỗng ở giữa, không được đưa ngón tay cắm vào lỗ mũi, phải để tay ngang ngực, cao thấp đúng chỗ. Không được lễ bái không phải lúc; muốn lễ bái không phải lúc thì phải đợi lúc mọi người yên tĩnh. Thầy lạy Phật, không được cùng thầy lạy ngang nhau, mà phải theo sau thầy và lạy cách xa. Thầy xá lạy người, không được cùng thầy đồng xá lạy. Ở trước thầy, không được cùng đồng bậc lạy nhau. Ở trước thầy, không được nhận người lạy. Tay mình cầm kinh tượng thì không được lạy người. Phàm lễ bái, phải tinh thành mà quán tưởng. Giáo lý liệt kê bảy cách lạy, không thể không biết.
(38) Chúc phạn hậu, xỉ mộc thanh tịnh, phương hành lễ kính. Bất ưng trước điệp y lễ tha nhân, diệc bất đắc trước điệp y thọ đàn việt lễ, đương hằng trước man điều ca sa. Nghệ tục tỉnh thân, bất đắc tác lễ tục thân quyến thuộc, duy chí thành hiệp chưởng vấn tấn.
Sau khi ăn cháo, ăn cơm, phải đánh răng, gột rửa sạch sẽ, mới làm việc lễ kính. Không được mặc áo ngắn lạy người khác, cũng không được mặc áo ngắn nhận đàn việt lạy, trường hợp nào cũng phải thường mặc ca sa man điều. Đến nhà tục thăm người thân, thì không được lạy thân nhân bà con thế tục, chỉ chí thành chắp tay hỏi thăm.

Tập Học Kinh Điển Đệ Bát
(Thứ 8, Học Tập Kinh Điển)
(39) Nghi tiên học Sa di ni thập giới, chư uy nghi, hậu học tu đa la, bất đắc vi việt. Phàm học kinh, tiên tu bạch sư, kinh hoàn, cánh bạch sư học mỗ kinh. Bất đắc ô thủ trì kinh quyển. Bất đắc khẩu xuy kinh thượng trần. Bất đắc án thượng lang tạ quyển trật. Bất đắc kinh án thượng bao tàng trà mạt tạp vật. Đối kinh điển như đối Phật. Bất đắc tá nhân kinh khán bất hoàn, cập bất gia ái trọng dĩ trí tổn hoại.
Phải trước học mười giới luật và các uy nghi của Sa di ni, sau học kinh, không được trái vượt thứ tự ấy. Phàm học kinh nào thì phải bạch thầy trước, kinh ấy xong thì lại bạch thầy mà học kinh khác. Không được tay dơ mà cầm kinh điển. Không được dùng miệng thổi bụi trên kinh. Không được trên bàn kinh để quyển pho bừa bãi. Không được trên bàn kinh mà cất để trà mạt, tạp vật. Đối với Kinh như đối với Phật. Không được mượn kinh của người để coi mà không trả, lại không gia tâm quí trọng để đến nỗi hư hỏng.
(40) Bất đắc tiếu kinh ngữ. Phàm độc kinh luật thời tiên lễ kinh luật tam bái, phương song thủ thỉnh quyển ư án; tương khai quyển, tiên tất hiệp chưởng tụng khai kinh kệ, yểm quyển dĩ, nhưng thỉnh cúng Phật tượng tiền, tác lễ tam bái nãi khước. Độc kinh luật án ưng tịnh khiết, phần lô hương. Bất đắc Sa di ni luật nghi phóng đại thừa kinh thượng. Bất đắc dĩ mạo trí kinh luật quyển thượng. Bất đắc nhị nhân hý tiếu độc kinh luật. Độc kinh bất đắc vũ án, khúc thân, kiều túc, lụy khỏa. Bất đắc cao thanh động chúng. Bất đắc ngọa độc xuất thanh.
Không được cười lời trong kinh luật. Phàm lúc đọc kinh luật thì trước lạy kinh luật ba lạy, mới hai tay thỉnh quyển kinh luật ấy đến nơi bàn đọc; sắp mở quyển ra để đọc thì trước hết phải chắp tay tụng bài kệ khai kinh; đọc và xếp quyển lại rồi, vẫn thỉnh quyển ấy đem để thờ cúng trước tượng Phật, làm lễ ba lạy mới lui ra. Bàn đọc kinh luật thì phải lau sạch sẽ và đốt hương trong lò. Không được đem sách Sa di ni luật nghi để trên kinh luật đại thừa. Không được đem mão để trên cuốn kinh luật. Không được hai người cùng giỡn cười mà đọc kinh luật. Khi đọc kinh luật thì không được vỗ bàn, cong mình, kiễng chân, chồng gót. Không được đọc lớn tiếng động chúng. Không được nằm đọc ra tiếng.

Thính Pháp Đệ Cửu
(Thứ 9, Nghe Pháp)
(41) Đương chỉnh lý y phục. Bình thị trực tiến. Tọa tất đoan nghiêm. Bất đắc loạn ngữ. Bất đắc khái thóa. Phàm thính pháp tu văn nhi tư, tư nhi tu, bất đắc chuyên ký danh ngôn dĩ tư đàm bính. Bất đắc vị hội xưng hội, nhập nhĩ xuất khẩu. Chí thuyết pháp xứ, tiên lễ tòa tam bái phương tọa, thính cánh, khởi thân nhưng lễ tam bái, bàng lập, hầu thuyết giả hạ tòa, phương hồi bản sở. Bất đắc lai khứ vô lễ, tọa cửu sanh yểm.
Phải chỉnh đốn y phục. Nhìn ngang tầm mắt, tới thẳng pháp đường. Ngồi, tất phải thẳng và nghiêm. Không được nói bậy. Không được ho và nhổ. Phàm nghe pháp, phải nghe mà nghĩ, nghĩ mà tu, không được chuyên nhớ danh ngôn để cung cấp cho việc đàm luận. Không được chưa lãnh hội xưng lãnh hội, vào tai ra miệng. Đến chỗ thuyết pháp, trước lạy pháp tòa ba lạy mới ngồi, nghe rồi, đứng dậy vẫn lạy ba lạy, đứng ra một bên, hầu vị thuyết pháp xuống pháp tòa, mới về chỗ của mình. Không được đi lại vô lễ, ngồi lâu sinh chán.

Nhập Tự Viện Đệ Thập
(Thứ 10, Vào Tự Viện)
(42) Phàm nhập tự môn, bất đắc hành trung ương, tu duyên tả hữu biên hành; duyên tả tiên tả túc, duyên hữu tiên hữu túc. Bất đắc vô cố đăng đại điện du hành. Bất đắc vô cố đăng tháp. Nhập điện tháp đương hữu nhiễu, bất đắc tả chuyển. Bất đắc điện tháp trung thế thóa. Nhiễu tháp hoặc tam tạp, thất tạp, nãi chí thập bách, tu tri biến số.- Bất đắc dĩ lạp trượng đẳng ỷ điện bích. Bất đắc trước mộc kịch, cập bất tịnh lý nhập điện tháp trung. Bất đắc ư Phật điện trung hình tướng Phật tượng. Bất đắc điện tháp trung thư cước tọa. Bất đắc thượng tháp hướng song dũ quan vọng.
Phàm vào cửa chùa, không được đi chính giữa. Phải ven theo bên trái bên phải mà đi. Ven bên trái thì trước bước chân trái, ven bên phải thì trước bước chân phải. Không được vô cớ lên đại điện dạo chơi. Không được vô cớ lên tháp. Vào điện tháp, phải đi vòng quanh bên phải, không được đi vòng quanh bên trái. Không được trong điện tháp mà hỉ nước mũi, nhổ nước miếng. Nhiễu tháp thì hoặc ba vòng, bảy vòng, cho đến mười vòng, trăm vòng, và phải biết số vòng ấy. Không được đem nón gậy vân vân để dựa vào vách điện Phật. Không được mang guốc gỗ và giày không sạch vào trong điện tháp. Không được trong điện Phật mà coi hình coi tướng tượng Phật. Không được trong điện tháp mà ngồi duỗi chân. Không được lên tháp, hướng ra cửa sổ cửa vách mà nhìn ngắm.

Nhập Thiền Đường Tùy Chúng Đệ Thập Nhất
(Thứ 11, Vào Nhà Thiền Với Đồng Chúng)
(43) Bất đắc cao thanh đại ngữ. Khinh thủ yết liêm, tu thùy hậu thủ. Bất đắc đà hài tác thanh. Bất đắc đại khái sấu tác thanh.- Phàm tẩy diện, bất đắc đa sử thủy. Sấu khẩu thổ thủy, tu đê đầu dẫn thủy hạ, bất đắc phún thủy tiễn nhân. Bất đắc tam y cẩu giản. Bất đắc đa tác y phục, nhược hữu dư đương xả. Bất đắc trước loại tục gia phụ nữ y sức đẳng. Bất đắc dĩ bạch đới thúc yêu. Bất đắc bất tịnh thủ đáp y. Bất đắc tương Phật đăng tư tựu kỷ dụng. Nhiên đăng, đương dĩ tráo mật phú, vật linh phi trùng đầu nhập.
Không được lớn tiếng to lời. Nhẹ tay thả sáo phải đỡ tay phía sau. Không được kéo giày ra tiếng. Không được ho khan ho đàm lớn tiếng. Phàm rửa mặt, không được sử dụng nhiều nước. Súc miệng nhổ nước, phải cúi đầu đưa nước xuống, không được phun nước tạt ướt người. Không được đối với ba pháp y mà cẩu thả thiếu sót. Không được sắm nhiều y phục, nếu có thừa thì nên bỏ ra mà cho. Không được mặc y phục và dùng đồ trang sức vân vân giống với đàn bà con gái thế tục. Không được dùng dải trắng buộc lưng. Không được tay không sạch mà đắp y. Không được đem đèn của Phật dùng riêng cho mình. Thắp đèn, phải lấy lồng che kín, đừng để loại phi trùng gieo vào.
(44) Bất đắc nhàn tẩu. Bất đắc dữ nhân kết bái thân hữu. Bất đắc ư tích xứ lỏa hình tự lộng thân thể. Bất đắc chiếu cảnh ma vấn diện mục, họa mi. Thượng đơn hạ đơn câu đương tế hạnh, vật linh lân đơn động niệm. Bất đắc đơn thượng phùng bổ y bị.
Không được đi dạo. Không được cùng người kết làm bà con bạn bè. Không được ở chỗ khuất khỏa thân, tự mân mê thân thể. Không được soi gương xoa mặt, kẻ mắt, vẽ mày. Lên đơn xuống đơn đều phải nhẹ nhàng, đừng làm người trên đơn bên cạnh động niệm. Không được trên đơn may vá áo chăn.

Chấp Tác Đệ Thập Nhị
(Thứ 12, Làm Việc)
(45) Đương tích chúng tăng vật. Đương tùy tri sự giả giáo lệnh, bất đắc vi lệ. Phàm tẩy thái, đương tam dịch thủy. Phàm cấp thủy, tiên tịnh thủ. Phàm dụng thủy, tu đế thị hữu trùng vô trùng, nhược hữu trùng, dĩ mật la lự quá phương dụng; nhược nghiêm đông, bất đắc tảo lự thủy, tu đãi nhật xuất. Phàm thiêu táo, bất đắc nhiên hủ tân. Phàm tác thực, bất đắc đới trảo giáp cấu.
Phải thương tiếc vật của tăng chúng. Phải tùy giáo lịnh của vị tri sự, không được trái, ngang. Phàm rửa rau, phải ba lần đổi nước. Phàm múc nước, trước phải sạch tay. Phàm dùng nước, phải nhìn kyՠcó trùng không trùng, nếu có trùng thì lấy là dày lọc đi mới dùng; mùa đông lạnh lắm thì không được lọc nước sớm, phải chờ mặt trời mọc. Phàm đốt bếp, không được đốt củi thối mục. Phàm làm đồ ăn, không được để bẩn trong móng tay.
(46) Phàm khí ác thủy, bất đắc đương đạo, bất đắc cao thủ dương bát; đương ly địa tứ ngũ thốn, từ từ khí chi. Phàm tảo địa, bất đắc nghinh phong tảo, bất đắc tụ khôi thổ an môn phiến hậu. Tẩy nội y, tiên tu thập khứ kỷ sắt. Hạ nguyệt, dụng thủy bồn liễu, tu phúc linh càn, nhược ngưỡng tức trùng sanh. Bất đắc nhiệt thang bát địa thượng.
Phàm đổ bỏ nước dơ, không được đổ ra đường đi, không được cao tay dơ lên đổ xuống bắn ra; phải cách đất bốn năm tấc từ từ đổ bỏ nước ấy. Phàm quét đất, không được quét ngược gió, không được dồn đất bụi vào sau cánh cửa. Giặt áo trong, trước hết phải nhặt bỏ rận chấy. Những tháng hè, dùng chậu nước rồi, phải lật úp xuống làm cho khô ráo, nếu để ngửa ra là sinh trùng. Không được nước sôi đang nóng mà rót bắn trên đất.

Nhập Dục Đệ Thập Tam
(Thứ 13, Vào Nhà Tắm)
(47) Bất đắc dữ ưu bà di cọng tẩy. Bất đắc dữ tỳ sử cọng tẩy. Bất đắc dữ tiểu nhi cọng tẩy. Tiên dĩ thang tẩy diện. Tùng thượng chí hạ, từ từ tẩy chi. Bất đắc thô táo dĩ thang thủy tiễn tha nhân. Bất đắc dục đường tiểu di. Bất đắc tự thị hình thể ẩn xứ. Bất đắc cọng nhân ngữ tiếu. Phàm hữu sang tiển, nghi tại hậu dục; hoặc hữu khả úy giả, vưu nghi hồi ty. Bất đắc tứ ý cửu tẩy, phương ngại hậu nhân. Thoát y trước y, an tường tự tại. Thang lãnh nhiệt, y lệ kích bang, bất đắc đại hoán.
Không được cùng ưu bà di tắm rửa chung. Không được cùng tỳ sử tắm rửa chung. Không được cùng trẻ con tắm rửa chung. Trước, lấy nước nóng rửa mặt. Rồi từ trên đến dưới, từ từ mà rửa. Không được tinh nghịch, lấy nước nóng tạt người khác. Không được trong nhà tắm mà tiểu giải. Không được tự nhìn chỗ ẩn của hình thể. Không được cùng người nói cười. Phàm có ghẻ nhọt ghẻ lở thì nên tắm sau; hoặc có ghẻ nhọt đáng sợ, càng nên tránh đi. Không được mặc ý tắm rửa lâu, trở ngại người sau. Cởi áo mặc áo nên thung dung tự tại. Cần nước nóng đã nguội hay còn nóng thì y lệ mà đánh mõ dài, không được gọi lớn.

Nhập Xí Đệ Thập Tứ
(Thứ 14, Vào Nhà Xí)
(48) Dục đại tiểu tiện tức hành, mạc đãi nội bức thảng thốt. Trúc can thượng quải trực chuyết, triệp linh tề chỉnh, dĩ thủ cân hoặc yêu thao hệ chi, nhất tác ký nhận, nhị phòng đọa địa. Tu thoát hoán hài lý, bất đắc tịnh lý nhập xí. Bất đắc dữ nhân cọng xí. Bất đắc thượng nam tử xí thượng. Chí, đương đàn chỉ, hoặc khánh khái, sử nội nhân tri. Bất đắc bách xúc nội nhân sử xuất. Dĩ thượng, phục đương đàn chỉ tác thanh, linh xí trung phi nhân tri.
Muốn đại tiện tiểu tiện là đi ngay, đừng đợi trong cơ thể bức bách mà thảng thốt. Trên sào tre treo áo trực chuyết thì phải gấp xếp cho tề chỉnh, lấy khăn tay hoặc dây lưng buộc áo ấy, một là làm dấu nhận biết, hai là phòng rơi xuống đất. Phải cởi đổi giày dép, không được mang giày dép sạch vào nhà xí. Không được cùng người đi chung một lần trong nhà xí. Không được vào trong nhà xí đàn ông. Đến nhà xí, phải đàn chỉ hoặc dặng hắng, để cho người ở trong đó biết. Không được thúc bách người ở trong đó cho họ phải ra. Đã lên nhà xí, lại phải đàn chỉ ra tiếng, làm cho loài không phải người ở trong nhà xí biết.
(49) Bất đắc đê đầu thị hạ. Bất đắc trì thảo họa địa. Bất đắc nỗ khí tác thanh. Bất đắc cách bích cọng nhân ngữ. Bất đắc thóa bích. Tiện tất, đương tiên tẩy tịnh, thứ tẩy thủ; vị tẩy thủ, bất đắc trì vật. Vị tẩy tịnh tẩy thủ, phùng nhân bất đắc tác lễ, nghi trắc thân thi. Bất đắc duyên lộ hành hệ y đới.
Không được cúi đầu nhìn xuống. Không được cầm cỏ vẽ đất. Không được rán hơi ra tiếng. Không được cách vách cùng người nói chuyện. Không được nhổ nước miếng vào vách. Tiện lợi hoàn tất, phải trước hết rửa sạch, kế đó rửa tay; chưa rửa tay thì không được cầm nắm đồ vật. Chưa rửa sạch và rửa tay, thì gặp người không được thi lễ; phải nghiêng mình tránh họ. Không được ven theo đường vừa đi vừa buộc áo, dải.

Miên Ngọa Đệ Thập Ngũ
(Thứ 15, Nằm Ngủ)
(50) Phàm xứ, thụy bất tại nhân tiền, khởi bất tại nhân hậu. Bất đắc dữ đại Tỳ kheo ni đồng thất túc. Bất đắc dữ đồng sự Sa di ni cập Thức xoa ma na cọng tháp, thiết vô dị tháp bất đắc cọng bị, thiết vô dị bị tu các trước sấn thân y. Bất đắc nhập Phật tháp trung chỉ túc, trừ vị thủ hộ. Đương đầu thâu Phật. Đương ủ ngọa, bất đắc thân cước, bất đắc ngưỡng hướng tần thân. Bất đắc lỏa khỏa tự lộ. Bất đắc thủ cận bất tịnh xứ. Phàm quải hài miệt tiểu y đẳng, bất đắc quá nhân đầu diện. Bất đắc cọng lân đơn thuyết thoại, động chúng. Thiện kiến luật vân, lâm dục thụy thời, ưng tiên niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thiên, niệm vô thường; ư lục niệm trung tùy nhất nhất niệm.
Ở đâu, ngủ không trước người, dậy không sau người. Không được cùng đại Tỳ kheo ni ngủ đồng phòng. Không được cùng Sa di ni đồng sự và Thức xoa ma na chung giường, nếu không có giường khác thì không được chung chăn, nếu không có chăn khác thì phải ai cũng mặc áo lót mình. Không được vào trong tháp Phật mà ngủ, trừ vì giữ gìn tháp ấy. Nằm ngủ nên xoay đầu về phía Phật. Nên nằm cong lưng, không được duỗi cẳng, không được ngả ngửa, co duỗi. Không được hở hang tự lộ. Không được để tay gần chỗ bất tịnh. Phàm treo giày, tất, áo nhỏ vân vân, không được quá đầu và mặt người. Không được cùng người trên đơn bên cạnh nói chuyện, động chúng. Thiện kiến luật nói, khi sắp ngủ thì trước phải tưởng nhớ Phật, tưởng nhớ Pháp, tưởng nhớ Tăng, tưởng nhớ giới luật, tưởng nhớ chư thiên, tưởng nhớ vô thường; trong 6 sự tưởng nhớ như vậy, tùy đó mà tưởng nhớ.

Vi Lô Đệ Thập Lục
(Thứ 16, Quanh Lò Lửa)
(51) Bất đắc giao đầu tiếp nhĩ thuyết thoại. Bất đắc đàn cấu nị hỏa trung. Bất đắc hồng bồi hài miệt. Bất đắc hướng hỏa thái cửu, phương hậu nhân. Xảo noãn, tiện nghi qui vị.
Không được giao đầu tiếp tai nói chuyện. Không được gảy búng cáu bẩn vào trong lửa. Không được hơ sấy giày, tất. Không được hơ lửa quá lâu, trở ngại người sau. Hơi ấm, liền nên về chỗ.

Tại Phòng Trung Trú Đệ Thập Thất
(Thứ 17, Ở Trong Phòng)
(52) Canh tương vấn tấn, tu tri đại tiểu. Tứ phần luật vân, Sa di dĩ sanh niên vi thứ đệ, nhược sanh niên đẳng giả dĩ xuất gia niên nguyệt vi thứ đệ, khiêm hòa vi cao thượng; kỳ Sa di ni diệc nhĩ. Dục trì đăng hỏa nhập, dự cáo phòng nội tri, vân hỏa nhập; dục diệt đăng hỏa, dự vấn đồng phòng nhân, cánh dụng đăng phủ. Bất đắc khẩu xuy đăng hỏa, ưng từ khước chú linh tức. Diệt đăng hậu, bất đắc cao thanh niệm tụng.
Chào hỏi nhau, phải biết lớn nhỏ. Tứ phần luật nói, Sa di nên lấy năm sinh làm thứ tự, nếu năm sinh ngang nhau thì nên lấy năm tháng xuất gia làm thứ tự. Tuy nhiên, hãy lấy đức tính khiêm tốn hòa nhã mà làm cao thượng. Sa di ni cũng vậy. Muốn cầm lửa đèn vào, phải bảo trước trong phòng biết, rằng tôi cầm lửa đèn vào; muốn tắt lửa đèn, phải hỏi trước người cùng phòng còn dùng nữa không. Không được dùng miệng thổi lửa đèn, mà nên từ từ hạ tim làm cho tắt đi. Sau khi tắt đèn, không được lớn tiếng tụng niệm.
(53) Nhược hữu bịnh nhân, đương từ tâm thỉ chung khán chi. Hữu nhân thụy, bất đắc đả vật tác hưởng, cập cao thanh ngữ tiếu. Bất đắc vô cố nhập tha phòng viện. Bất đắc khái thóa thất trung tịnh địa cập tứ bích. Bất đắc dữ bạn hý luận, thuyết thế gian bất cấp chi sự.
Nếu có bịnh nhân thì nên từ tâm coi sóc từ đầu đến cuối. Có người ngủ thì không được đụng đồ ra tiếng, và lớn tiếng nói cười. Không được vô cớ vào phòng khác. Không được ho nhổ xuống nền đất sạch và bốn phía tường vách trong phòng. Không được cùng bạn hý luận, nói việc thế gian, không cấp bách.

Chí Đàn Việt Gia Đệ Thập Bát
(Thứ 18, Đến Nhà Đàn Việt)
(54) Hữu dị tòa đương tọa, bất nghi tạp tọa. Bất đắc tả hữu cố thị. Bất đắc dữ tỳ cọng tư ngữ. Nhân vấn kinh, đương tri thời, thận vật vi phi thời chi thuyết. Nhược dữ nam tử thuyết pháp, bất đắc đê thanh mật ngữ. Bất đắc đa ngữ. Bất đắc cuống thuyết Phật pháp, loạn đáp tha vấn, tự mại đa văn, cầu bỉ cung kính. Bất đắc trá hiện uy nghi, giả trang thiền tướng.
Có chỗ ngồi khác mới nên ngồi, không được ngồi tạp. Không được ngoái nhìn hai bên. Không được cùng tớ gái nói riêng với nhau. Người ta hỏi kinh thì phải biết lúc, thận trọng đừng làm cái việc nói không phải lúc. Thuyết pháp cho nam tử thì không được thấp tiếng nói thầm. Không được nói nhiều. Không được nói dối trá chánh pháp của Phật, đáp rối loạn lời hỏi của người, tự khoe đa văn, cầu họ cung kính. Không được trá hiện uy nghi, giả trang thiền tướng.
(55) Chủ nhân thiết thực, tuy phi pháp hội, diệc vật thất nghi qũy Bất đắc chí táo hạ tọa thực. Bất đắc tạp tọa tửu tịch. Bất đắc không thất nội, hoặc bình xứ, dữ nam tử cọng tọa cọng ngữ. Bất đắc thư sớ vãng lai, cập giả tá đẳng. Bất đắc tống hạp lễ, hiệu bạch y vãng hoàn. Bất đắc kết bái bạch y nhân tác phụ mẫu tỷ muội huynh đệ. Bất đắc quản nhân gia vụ. Bất đắc thuyết tăng trung quá.
Chủ nhân thiết trai, dẫu không phải pháp hội, cũng đừng bỏ nghi thức. Không được đến ngồi dưới bếp mà ăn. Không được ngồi xen tiệc rượu. Không được ở trong nhà vắng, hoặc ở chỗ khuất, cùng nam tử ngồi với nhau, nói với nhau. Không được thư từ qua lại, và mượn nhờ vân vân. Không được đưa biếu lễ vật, học đòi sự giao hảo của người đời. Không được cùng người đời kết làm cha mẹ, chị em, anh em. Không được lo liệu việc nhà của người. Không được nói lỗi lầm trong tăng chúng.
(56) Nhược nghệ tục tỉnh thân, đương tiên nhập trung đường lễ Phật, hoặc gia đường thánh tượng tiền đoan trang vấn tấn, thứ phụ mẫu quyến thuộc đẳng, nhất nhất vấn tấn. Bất đắc hướng phụ mẫu thuyết sư pháp nghiêm, xuất gia nan, tịch liêu đạm bạc, gian tân khổ khuất đẳng sự; nghi vị thuyết PhạAầt pháp, linh sanh tín tăng phước. Bất đắc dữ thân tộc tiểu nhi đẳng cửu tọa cửu lập, tạp thoại hý tiếu. Bất đắc dữ ưu bà di tương khán hình thể đại tiếu. Bất đắc độc chí xá hậu. Vô phạm dạ hành. Nhược thiên vãn tác túc, đương độc xử nhất tháp, đa tọa thiểu ngọa, nhất tâm niệm Phật; sự ngật tức hoàn, bất đắc lưu liên.
Đến nhà tục thăm người thân, phải trước hết vào nhà chính lạy Phật, hoặc đến trước tượng thánh trong nhà nghiêm chỉnh chắp tay, thứ đến cha mẹ bà con vân vân, nhất nhất chào hỏi. Không được hướng về cha mẹ nói những việc như cái nghiêm của phép thầy, cái khó của xuất gia, cô liêu đạm bạc, gian nan khổ sở vân vân; nên vì cha mẹ nói Phật pháp, làm cho cha mẹ phát sinh tín tâm và tăng trưởng phước đức. Không được cùng thân tộc, thiếu niên vân vân, ngồi lâu đứng lâu, nói tạp giỡn cười. Không được cùng ưu bà di coi hình thể của nhau và cả cười. Không được một mình đến sau nhà người ta. Đừng phạm cái lỗi đi đêm. Nếu trời tối, ngủ lại, phải dùng riêng một giường, ngồi nhiều nằm ít, nhất tâm niệm Phật; việc xong về liền, không được lưu luyến.

Khất Thực Đệ Thập Cửu
(Thứ 19, Khất Thực)
(57) Đương dữ lão thành nhân câu. Nhược vô nhân câu, đương tri sở khả hành xứ. Đáo nhân môn hộ, nghi thẩm cử thác, bất đắc thất uy nghi. Gia vô nữ nhân, bất khả nhập môn. Nhược dục tọa, tiên đương chiêm thị tòa tịch: hữu đao binh bất nghi tọa, hữu bảo vật bất nghi tọa. Dục thuyết kinh, đương tri sở ưng thuyết thời, bất ưng thuyết thời. Bất đắc thuyết dữ ngã thực linh nhĩ đắc phước. Bất đắc ai cầu khổ sách. Bất đắc quảng đàm nhân quả, vọng bỉ đa thí. Bất đắc chuyên hướng thục tình thí chủ gia cập thục tình am viện xứ sách thực.
Nên cùng bậc lão thành đi chung. Nếu không có bậc lão thành đi chung thì phải biết chỗ có thể đi. Đến cửa ngõ của người, phải xét kỹ cử động, không được để mất uy nghi. Nhà không có phụ nữ thì không được vào cửa. Nếu muốn ngồi, trước hết phải xem kỹ chỗ ngồi: có khí giới không nên ngồi, có đồ quí không nên ngồi. Muốn nói kinh, phải biết lúc đáng nói, lúc không đáng nói. Không được nói cho tôi đồ ăn thì làm cho người được phước. Không được khẩn khoản nài nỉ. Không được nói nhiều về nhân quả, mong họ cho nhiều. Không được hay đến nhà thí chủ thân tình hoặc chỗ am viện thân tình mà đòi hỏi thực phẩm.

Nhập Tụ Lạc Đệ Nhị Thập
(Thứ 20, Vào Chỗ Dân Cư)
(58) Hữu Tam bảo sự cập khán bịnh đẳng thiết duyên phương nhập; vô thiết duyên bất đắc nhập. Tức nhập, diệc mích như pháp giả bạn. Bất đắc trì hành. Bất đắc diêu tý hành. Bất đắc bàng thị nhân vật hành; nghi đoan thân bình mục, trực thị nhi hành. Bất đắc cọng tiểu niên đàm tiếu hành. Bất đắc dữ nam nhân tiền hậu hỗ hành. Bất đắc dữ nam tăng tiền hậu hỗ hành. Bất đắc dữ túy nhân cuồng nhân tiền hậu hỗ hành.
Có lý do cần thiết, là việc của Tam bảo và thăm bịnh vân vân, mới vào; không có lý do cần thiết thì không được vào. Tức như có vào thì cũng kiếm người đúng phép làm bạn đi theo. Không được đi như chạy. Không được đi mà lay động cánh tay. Không được đi mà nhìn qua hai bên những người và vật; nên mình thẳng, mắt bằng, nhìn ngay mà đi. Không được đi mà cùng thiếu niên nói cười. Không được đi mà cùng nam nhân trước sau theo nhau. Không được đi mà cùng nam tăng trước sau theo nhau. Không được đi mà cùng người say người cuồng trước sau theo nhau.
(59) Hoặc phùng tôn túc thân thức, câu lập hạ bàng, tiên ý vấn tấn. Hoặc phùng hý huyễn kỳ quái đẳng sự, câu bất nghi khán. Hoặc ngộ quan phủ, bất luận đại tiểu, câu nghi hồi ty. Hoặc ngộ đấu tránh giả diệc viễn thi, bất đắc trụ khán. Phàm ngộ thủy khanh, thủy khuyết, bất đắc khiêu việt; hữu lộ đương nhiễu hành, vô lộ, chúng giai khiêu việt tắc đắc. Bất đắc hồi tự khoa trương sở kiến kỳ sự.
Gặp tôn túc, thân thức, thì nên đứng chỗ thấp hoặc đứng một bên, chào hỏi trước. Gặp những sự kỳ lạ như trò chơi, ảo thuật vân vân, đều không nên xem. Hoặc gặp quan quyền, bất luận lớn nhỏ, đều nên tránh đi. Gặp kẻ đánh nhau cãi nhau, cũng nên tránh xa, không được dừng ngó. Phàm gặp nước hố, nước lỡ, không được nhảy qua; có đường khác thì nên đi vòng quanh, không có đường khác mà mọi người cùng nhảy qua thì được. Không được về chùa khoa trương những sự kỳ lạ đã thấy.

Thị Vật Đệ Nhị Thập Nhất
(Thứ 21, Mua Đồ)
(60) Vật tranh quí tiện. Nhược vi nhân sở phạm, phương tiện thi, vật tùng cầu trị. Dĩ hứa giáp vật, tuy phục cánh tiện, vật xả bỉ thủ thử, linh chủ hữu hận. Thận vật bảo nhậm trí khiên phụ:
Đừng tranh đắt rẻ. Nếu bị người xúc phạm thì phương tiện tránh đi, đừng theo mà mưu cầu giá rẻ. Đã hứa mua vật của ai, thì dẫu vật của người khác rẻ hơn, cũng đừng bỏ vật ấy lấy vật này, làm cho chủ vật ấy tức giận. Thận trọng, đừng bảo lãnh kẻo dẫn đến lỡ lầm và mắc nợ.

Phàm Sở Thi Hành Bất Đắc Tự Dụng Đệ Nhị Thập Nhị
(Thứ 22, Làm Gì Cũng Không Được Tự Ý)
(61) Xuất nhập hành lai, đương tiên bạch sư. Tác tân pháp y, đương tiên bạch sư; trước tân pháp y, đương tiên bạch sư. Thế đầu, đương tiên bạch sư. Tật bịnh phục dược, đương tiên bạch sư. Tác chúng tăng sự, đương tiên bạch sư. Dục hữu tư cụ chỉ bút chi loại, đương tiên bạch sư. Nhược phúng kinh khởi, đương tiên bạch sư.
Ra vào đi về, phải bạch thầy trước. Sắm pháp y mới, phải bạch thầy trước; mặc pháp y mới, phải bạch thầy trước. Cạo đầu, phải bạch thầy trước. Tật bịnh uống thuốc, phải bạch thầy trước. Làm việc tăng chúng, phải bạch thầy trước. Muốn có đồ riêng thuộc loại giấy bút, phải bạch thầy trước. Tụng kinh tán kệ, phải bạch thầy trước.
(62) Nhược nhân dĩ vật huệ kỷ, đương tiên bạch sư, sư hứa thọ phương thọ; kỷ dục dĩ vật huệ nhân, đương tiên bạch sư, sư thính phương tống. Nhân tùng kỷ tá vật, đương tiên bạch sư, sư thính phương dữ; kỷ dục tá nhân vật, đương tiên bạch sư, sư thính phương tá. Bạch, sư thính bất thính, giai đương tác lễ. Bất thính, bất đắc hữu hận ý. Bất đắc lập môn vọng thị, cập dĩ chỉ sáp khẩu trung.
Ai đem đồ cho mình, phải bạch thầy trước, thầy cho nhận mới nhận; mình đem đồ cho ai, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới cho. Ai mượn đồ, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới cho mượn; mình mượn đồ của ai, phải bạch thầy trước, thầy chấp thuận mới mượn. Bạch thầy, thầy chấp thuận hay không chấp thuận, đều phải làm lễ. Thầy không chấp thuận, không được có ý giận hờn. Không được đứng nơi cửa mà trông ngắm, và lấy ngón tay cắm vào trong miệng.

Theo Đại Tạng Kinh Việt Nam
Nguồn tin: Trung tâm Văn hóa Phật giáo Việt Nam Franken - Chùa Vĩnh Nghiêm
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Bộ đếm

  • Đang truy cập: 5
  • Hôm nay: 2398
  • Tháng hiện tại: 65231
  • Tổng lượt truy cập: 9651976

Lịch vạn sự

Tài khoản nhận cúng dường

 

Tài khoản tại CHLB Đức:
Konto-Nr.: 62715, Bankleitzahl: 760 694 40
Kreditinstitut: Raiffeisenbank Altdorf - Feucht eG
Begünstigter: VBKZ Franken e.V.
IBAN: DE68 7606 9440 0000 0627 15,
SWIFT-BIC: GENODEF1FEC
 
Tài khoản tại Việt Nam:
Tài khoản số: 060044816299
Tại ngân hàng: Sacombank,
Sở Giao dịch Tp. Hồ Chí Minh
Chủ tài khoản: Phạm Đức Phong
 
Tài khoản nơi có cộng đồng Việt Nam ở Hải ngoại:
Tài khoản số: 0170 003 105,
Ngân hàng số: 501 310 00
Tại ngân hàng: Vietinbank
Chủ tài khoản: VBKZ Franken e.V.
IBAN: DE60 5013 1000 0170 0031 05,
SWIFT-BIC: ICBVDEFF

Hướng dẫn đường đi

Thăm dò ý kiến

Đánh giá của bạn về website này

Tốt

Trung bình

Không có ý kiến gì

Cần thay đổi nhiều

Quảng bá