Phật Giáo tại Châu Âu

Đăng lúc: Thứ tư - 30/11/2011 13:08 - Người đăng bài viết: Redakteur
Phật Giáo tại Châu Âu

Phật Giáo tại Châu Âu

1)- Phật Giáo tại Ðức 

Ðức (Germany), là một quốc gia ở Trung Âu. Sau đại chiến thế giới thứ hai, Ðức bị chia làm hai nước: Cộng hòa Dân chủ Ðức ở phía Ðông và Cộng hòa Liên bang Ðức ở phía Tây. Hiện nay, Ðức đã thống nhất thành một quốc gia với dân số 80 triệu người và diện tích 356.000 km2.


 Trong những thập niên gần đây, Phật giáo (PG) đã trở nên phổ biến ở quốc gia này, nhiều người đã quy y và nhiều người khác đã xuất gia tu học và làm công tác truyền giáo. Tuy nhiên, lịch sử PG tại Ðức vẫn còn rất mới mẻ. Thế kỷ thứ XIX là mốc thời gian có thể đó là lúc PG được truyền vào châu Âu qua các bài báo của người du lịch và nhân viên thuộc địa đang làm việc tại Á châu. Giới triết gia, nghệ sĩ và trí thức Ðức là những người đầu tiên quan tâm đến tôn giáo mới này. Ðiều đó không có gì phải ngạc nhiên, vì nước Ðức vốn đã nổi tiếng trên thế giới như là một quốc gia của các đại thi hào và triết gia lừng danh như Kant, Schopenhauer, Herder, Hegel, Nietzche, Goethe, Schilla, Hessa... là những con người được khâm phục và nể vì trên khắp thế giới.

Các tổ chức truyền bá Phật giáo tại Ðức

Về mặt truyền giáo, tại Ðức có phần hơn các quốc gia láng giềng, điều đó rất cần thiết để phân biệt về các tổ chức truyền bá PG từ sự phân phối tự nhiên của nền triết học PG và các hình thức tu tập thiền. Hội PG đầu tiên được thành lập tại Ðức vào năm 1903 tại thành phố Leipzig, đó là Giáo hội Phật giáo Ðức (Deutsche Buddhistische Union) do đạo hữu Kant Seidenstuker (1876-1936) sáng lập và lãnh đạo. Hội đoàn này, không phải thuần là một đoàn thể của cộng đồng Phật tử Ðức, mà chỉ là một tổ chức cung cấp giáo lý PG cho giới trí thức Ðức. Vì mục đích này mà Hội đã thành lập một nhà in tại Leipzig và cho phát hành một tờ tạp chí có tên là Buddhistische (Phật giáo) để phổ biến chủ trương và quan điểm của mình. Sau thế chiến thứ nhất (1914-1918), vào năm 1924, bác sĩ y khoa Paul Dahlke (1865-1928) đã thành lập một Trung tâm PG (TTPG) ở Berlin-Frohnau lớn nhất ở Ðức. Lúc bấy giờ, những buổi thuyết giảng của bác sĩ Dahlke đã thu hút nhiều người đến nghe. Ông cố gắng giới thiệu giáo lý Vô ngã (Non ego) qua lăng kính của khoa học hiện đại. Một cộng đồng PG khác được thành lập vào năm 1931 bởi hai đạo hữu Georg Grimm (1868-1945) và Kant Seidenstucker tại thành phố Munich. Ông Grimm không tán thành khuynh hướng của bác sĩ Dahlke về một sự diễn dịch mới trong giáo lý; vị đạo hữu này cố gắng khôi phục lại giáo lý nguyên thủy của Phật giáo để tìm ra lời dạy đích thực cho đời sống hiện tại. Thông qua hoạt động truyền giáo này của Grimm, lần đầu tiên quan niệm tín ngưỡng được giới thiệu tại Ðức. Ðây là một cộng đồng tôn giáo mà nhiều người đã tự gọi mình là Phật tử và thọ trì năm giới cấm của nhà Phật. Năm 1935, Hội PG Theravada ra đời, cũng do đạo hữu Georg Grimm sáng lập và lãnh đạo, trụ sở của hội đặt tại Citting trên bờ hồ Ammer. Hội này đã cho ấn hành một tờ nguyệt san và quyển "Lời dạy của Ðức Phật, Tôn giáo của lý trí" (The Teachings of The Buddha, The Religion of Reason), một tác phẩm của đạo hữu G. Grimm.

Tất cả các hội đoàn PG trên đã bị cấm hoạt động dưới thời thống trị của chính quyền Nazi (1933-1945) do Adolf Hitler (1889-1945) cầm quyền. Ðến thời kỳ hậu chiến, có nhiều tổ chức PG ra đời. Tại Stuttgart, năm 1952, cộng đồng PG được thành lập, đến năm 1955, cộng đồng này và nhiều hội đoàn PG khác được khôi phục và thống nhất với danh xưng "Giáo hội Phật giáo Ðức" (German Buddhist Union), đây là một tổ chức đã tập hợp và thống nhất tất cả các hội đoàn PG trên khắp nước Ðức. Nhiều tạp chí và báo của hội lần lượt ra đời, hiện nay nổi bật nhất là hai tạp chí tiếng Ðức "Liên hoa" (Lotusblatter) và "Những người thời hiện đại" (Mitwelt). Năm 1992, Hội cùng với Giáo hội Phật giáo châu Âu (European Buddhist Union) tổ chức hội nghị tại thủ đô Berlin; và cuối tháng 10 năm 1945, hội cũng đã tổ chức lễ kỷ niệm 40 năm từ ngày thành lập tại Müchen.

Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống tinh thần của người Ðức

Sự thừa nhận các tôn giáo lớn ở phương Ðông được truyền bá trong đời sống tinh thần của người Ðức. Cho dù Herder, Kant và Hegel đã dành nhiều thời gian cho các tôn giáo khác và triết học Ấn, nhưng hiểu biết của các nhà tư tưởng này quá hạn chế đến nỗi họ hầu như không thể phân biệt được sự khác biệt giữa Ấn giáo và PG. Chẳng hạn, ông Hegel hay nhầm lẫn hình ảnh ngồi thiền của Ðức Phật với vị thần Krishna của Ấn giáo. Tuy vậy, lời kết luận của Hegel rằng những triết thuyết của Phật giáo vẫn tốt hơn Ấn giáo. Thực tế, trong lời phê bình của Hegel về Ấn giáo, thì ông cho rằng tôn giáo đó như là "thuốc phiện của mọi người" (The opium of plepeo). Về sau, Karl Marx sử dụng khái niệm này để nói đến một tôn giáo lớn ở phương Tây, Thiên Chúa giáo. Còn đối với PG, ông Hegel giới thiệu như là một tôn giáo dẫn đường.

Có lẽ tầm ảnh hưởng của PG trong xã hội Ðức đáng lưu tâm nhất vào cuối thế kỷ XIX là thông qua triết thuyết của Arthur Schopenhauer (1788-1860), một triết gia người Ðức. Ông biết đạo Phật và triết học Ấn trong thời gian còn là sinh viên học ở Berlin. Về sau, ông là bạn thân của nhiều học giả PG phương Tây như Schleiermacher (người Ðức), Isaak Jakob Schmidt (người Nga), Eugene Burnouf (người Pháp).... Trong thế giới triết học, ông nổi lên với tác phẩm "Thế giới là ý chí và biểu tượng" (The World as Will and Idea). Ông quan niệm rằng "Con người vĩ đại không phải là kẻ chiến thắng mà là con người từ bỏ khát vọng của ý chí". Bộ sách (hai cuốn) này đã giúp cho mọi người hiểu về triết thuyết của ông. Ðặc biệt trong cuốn hai, ông có đề cập đến Phật giáo và triết học Ấn. Tuy nhiên theo ông, những gì ông viết về Phật giáo chỉ là bước khởi đầu. Ông nói: "Ðến năm 1818, khi tác phẩm của tôi xuất hiện, ở châu Âu có rất ít bài viết về PG. Do đó, những gì tôi viết về PG là không đầy đủ và chưa hoàn chỉnh". Những năm cuối đời, ông dành nhiều thời gian để học kinh Kim Cương (Diamond Sutra, qua bản dịch của Issak Jakob Schmidt), và nghiên cứu giáo lý Niết bàn trong PG.

Sau Schopenhauer có Friedrich W.Nietzsche (1844-1900), một triết gia vô thần Ðức và là cha đẻ của thuyết siêu nhân, có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng triết học tư sản phương Tây sau Immanuel Kant. Qua nhiều bài viết của mình, ông Nietzsche đã thừa nhận mình là học trò và là người chịu ảnh hưởng tư tưởng PG qua Schopenhauer. Ông Neitzsche cũng rất quan tâm đến giáo lý Niết bàn.

Sự ảnh hưởng PG trong đời sống văn hóa Ðức rõ ràng, nhất là bởi những tài liệu sách báo về PG do chính người Ðức viết. Nhiều người đã trở thành Phật tử thông qua những hoạt động văn hóa của họ, rồi họ thành lập những trung tâm PG thiền ở các cộng đồng dân cư. Ông Kanl Eugen Newmann, một học giả người Áo, đã cho in một tuyển tập các bài pháp thoại của Ðức Phật theo hệ Nikaya. Rồi đến năm 1879, ông Friendrich Max Mueller (1823-1900) cho xuất bản cuốn kinh Phật bằng tiếng Anh. Ông cũng là một trong những thành viên có công gây dựng Hiệp hội Thánh điển Pàli tại Anh quốc. Một người Ðức khác có công truyền giáo là ông Hermann Oldenberg (1854-1920), người đầu tiên viết về lịch sử truyền đạo của Ðức Thích Ca Mâu Ni cho thế giới phương Tây qua cuốn Ðức Phật-Cuộc đời, lời dạy và Giáo đoàn của Ngài (Buddha-His Life, His teaching and His Order) xuất bản năm 1881. Viết cuốn sách này đạo hữu Oldenberg muốn lên tiếng bác bỏ luận thuyết sai lầm của một học giả nào đó có ý cho rằng, một người được lịch sử gán cho một danh hiệu nổi tiếng "Buddha" (Phật) chưa bao giờ hiện hữu trên cõi đời này. Theo vị học giả này, Ðức Phật chỉ là một nhân vật biểu trưng của Phật giáo. Trong khi đánh đổ luận thuyết đó, ông Oldenberg đã đưa ra nhiều chứng cứ lịch sử về cuộc đời tu đạo và hành đạo của Ðức Phật. Ông muốn khẳng định rằng Ðức Thích Ca là một Ðức Phật lịch sử chứ không phải là một Ðức Phật huyền thoại. Quyển sách đã nhanh chóng nổi tiếng và phổ biến khắp nước Ðức. Ðến nay, quyển sách đã tái bản hơn 14 lần và danh hiệu "Gotama Buddha" rất quen thuộc với người dân châu Âu ngay từ lúc ấy. Có thể nói rằng, ông Oldenberg đã khơi dậy sự quan tâm đến PG của các học giả phương Tây đối với những bộ kinh thuộc hệ Nikaya. Ðó là giáo sư Luders, Von Lasenapp, F.Weller, Nobel, Walleser Waldschmidt... đã để tâm nghiên cứu kinh điển hệ Pàli; trong đó có một số vị quan tâm đến các kinh Sanskrit. Ðặc biệt cũng có nhiều công trình nghiên cứu về PG, phát triển bởi ba-bốn nhóm nhỏ, đứng đầu các nhóm này là Lạt Ma người Ðức Anagarika Govinda.

Nhiều bộ kinh Pàli đã được phiên dịch sang tiếng Ðức, quan trọng và nổi bật nhất là đã chuyển ngữ và ấn hành hoàn chỉnh năm bộ kinh hệ Nikaya. Những người có công trong công trình lịch sử này là những học giả và dịch giả tên tuổi như K. E. Newmann. K. S. Seidentucker, H. Oldenberg, E. O. Franker, Nyanatiloka Thera, D. Dalhke và Kurt Schmidt. Ðặc biệt, trong số những học giả nghiên cứu kinh Phật và sau đó khoác áo tu, nổi bật trong số đó có đạo hữu Walter Florus Gueth, một tín đồ Ky tô ở Hesser, đã đến xuất gia và tu học ở Tích Lan, vào năm 1903 với pháp danh là Nyanatiloka; Ngài là một tác giả và dịch giả PG nổi tiếng của 20 tác phẩm trong các thứ tiếng Ðức (15 quyển), Anh (6 quyển), Pháp (2 quyển), Pàli (2 quyển), Tích Lan (1 quyển). Các dịch phhẩm tiếng Ðức nổi tiếng của Ngài gồm có Tăng Chi bộ kinh (Anguttara Nikaya), kinh Pháp Cú (Dhammapala), Thanh Tịnh Ðạo Luận (Visuddhimagga). Trưởng lão Nyanatiloka cũng là người có công lớn trong việc đào tạo Tăng tài cho phương Tây khi thành lập một tu viện tại Tích Lan. Kế thừa sự nghiệp hoằng pháp của trưởng lão Nyanatiloka là Tỷ kheo Nyanaponika, cũng là một trí thức Ðức, đã phát tâm xuất gia và về sau trở thành một Tăng sĩ nổi tiếng ở châu Âu với nhiều tác phẩm Phật học cả tiếng Anh lẫn tiếng Ðức. Một Tăng sĩ người Ðức khác là Lạt Ma Anagarika Govinda, (thế danh là Ernst Lothar Hoffmann), xuất gia tại Tích Lan vào năm 1928 với Trưởng lão Nyanatiloka và được huấn luyện theo truyền thống Theravada. Tuy nhiên, hai mươi năm sau, Ngài đã chuyển sang tu tập theo truyền thống Kim Cương thừa của PG Tây Tạng. Trong quá trình hoằng pháp tại quê nhà, Ngài đã có những đóng góp quyết định cho PG Ðức. Ngài cũng là tác giả nhiều tác phẩm có giá trị nổi bật trong số đó là quyển "Con đường mây trắng" (The Way of The White Clouds). Một phụ nữ châu Âu đầu tiên trở thành nữ tu PG là nghệ sĩ đàn piano Else Buchholz, con gái một vị chủ ngân hàng Ðức, cô đã đến Tích Lan vào năm 1926, xuất gia và tu học với pháp danh là Uppalavanna.

Giới trẻ Ðức cũng trở về với PG qua tác phẩm nổi tiếng "Siddarta" (Sĩ Ðạt Ta) của Hermann Hess (1877-1962), một nhà thơ, nhà văn từng đoạt giải Nobel văn chương năm 1946. Sau khi từ bỏ mọi nghiên cứu về Tin Lành giáo, H. Hess bắt đầu tiếp xúc với Phật học và triết học Ấn, và chẳng bao lâu ông đã chinh phục bởi giáo thuyết này. Ông nghiên cứu PG và văn hóa Á Ðông qua ba lần viếng thăm Sri Lanka và Indonesia vào năm 1911. Kết quả của những công trình nghiên cứu đó đã giúp ông cho ra đời cuốn Sĩ Ðạt Ta, xuất bản năm 1922 và nó đã nhanh chóng được đón nhận một cách nồng nhiệt bởi giới trẻ Ðức và lập tức được chuyển ngữ ra nhiều thứ tiếng trên thế giới (bản dịch Việt ngữ với tựa đề "Câu chuyện dòng sông" do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch, Lá Bối in lần đầu tiên năm 1965).

Phật giáo Việt Nam tại Ðức

Như nhiều cộng đồng khác, người Việt đến định cư tại Ðức từ những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Hiện tại có khoảng 120.000 người Việt định cư tại CHLB Đức. Do chính sách phân bố của chính quyền Ðức, nên người Việt ở Ðức chỉ ở rải rác nhiều vùng khác nhau trên khắp nước Ðức. Dù vậy, người Việt ở Ðức đoàn kết và có nhiều hoạt động để khôi phục văn hóa và ngôn ngữ Việt, chẳng hạn, họ có khoảng 60 tờ tuần báo và Nguyệt san tiếng Việt và 20 chương trình phát thanh tiếng Việt để phục vụ cho cộng đồng.

Về tình hình PGVN tại Ðức, cũng như cộng đồng của mình, PGVN đã từng bước ổn định, phát triển và đi sâu vào xã hội Ðức.

Có thể nói, Phật giáo Theravada đã ảnh hưởng rất lớn trong các cộng đồng PG Ðức ở giai đoạn đầu mới truyền giáo. PG Mahayana, bao gồm Nhật Bản, Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam v.v. đã trở nên phổ biến sau thế chiến thứ hai. Từ những năm sáu mươi trở đi, Thiền học PG đã lan tỏa khắp đất nước này; các tác phẩm Thiền của Tanable Hajime, Hisamatsu Shinichi, Rudolf Otto, Eugen Herrigel, August Faust và đặc biệt là D. T. Suzuki, được phát hành rộng rãi để cung ứng cho trào lưu học và tu thiền ở Ðức. Từ đó đến nay, nhiều trung tâm thiền đã lần lượt ra đời và nhiều Thiền sư ở Á châu được cung thỉnh sang Ðức để tuyên dương pháp môn này.

Nếu năm 1962 tín đồ PG Ðức chỉ có 2.000, thì hiện nay (1999) con số đó đã được nâng lên hơn 70.000 người (số lượng được chính quyền liên bang thống kê và thừa nhận). Mặc dù số lượng tín đồ PG còn quá ít so với các nước Á châu, tuy nhiên PG ngày nay rất phổ biến ở Ðức; các nhà sách ở các thành phố lớn luôn tràn ngập Kinh sách PG và phong trào nghiên cứu và tu thiền ngày càng tăng. Dù vậy, PG Ðức vẫn còn hạn chế nhiều mặt, nhất là người lãnh đạo tinh thần và trực tiếp hướng dẫn tu học. Nếu ở phương Ðông, các Tăng sĩ làm công tác truyền giáo dẫn dắt người tại gia tu học; thì ở Ðức, người cư sĩ phải đảm nhận trọng trách ấy. Tuy nhiên, mọi tín đồ PG Ðức rất vui mừng, vì hiện nay, đất nước của họ rất nhiều giống dân khác nhau đến định cư và nước Ðức đã trở nên một quốc gia "đa tôn giáo". Dù Ky Tô giáo và Hồi giáo là hai tôn giáo chính ở xứ sở này, nhưng số lượng tín đồ PG vẫn đang gia tăng. Vì thế, chúng ta có quyền hy vọng rằng "vườn hoa Phật Giáo" sẽ nở rộ trong một tương lai gần.

2)- Phật Giáo ở Hungary

Hungary, một quốc gia ở miền trung Châu âu, bắc giáp với Ukraine, đông giáp với Romania, Tây giáp với Áo, và phiá Nam giáp với Serbia, Croatia và Slovenia. Thủ đô: Budapset. Diện tích: 93.030 km2, dân số: 10.550.000 người. Phật giáo là một trong bốn tôn giáo chính ở Hungary, bao gồm Gia Tô, Tin lành, và Do Thái.

Theo các nhà Dân tộc học và Khảo cổ học, người Hungary có nguồn gốc phương Ðông. Trong các phong tục, tập quán, truyền thuyết và nghệ thuật dân gian của Hungary tính hướng nội của phương đông vẫn còn sống động cho đến ngày nay. Theo kinh nghiệm hằng ngày của người Hungary, các hiểu biết về Phật giáo không xa lạ gì đối với dân tộc Hungary trước khi người Hungary chinh phục vùng đất này. Trong thời kỳ di dân, tại đây đã có những giống người du mục gốc châu Á, đáng kể nhất là bộ lạc người Hun (một trong những dân tộc châu Á đã xâm lăng châu Âu ở các thế kỷ 4 và 5). Có những bằng chứng về khảo cổ mang các mẫu vẽ trang hoàng hình chữ Vạn  từ thời đó. Tôn giáo cổ đại của người Hungary lúc bấy giờ là Ðạo thờ cúng Thần linh qua trung gian các thầy tế tự Shaman (Shamanism). Vì thế người ta cho rằng tổ tiên người Hungary đã làm quen với Phật giáo và có lẽ một số người trong đó đã xem Phật giáo như tín ngưỡng của họ. Tính cách khoan dung trong vấn đề tín ngưỡng của Ðạo Phật đã khiến cho họ có thể tin theo Ðạo Shaman trước kia đã làm, chẳng hạn như dân tộc Tây Tạng và Mông Cổ. Không may là những di vật từ thời đó đáng lẽ đã giúp cho chúng ta có thể giải đáp chính xác về vấn đề này lại bị phá hủy vì sự thiếu khoan dung của một số người quá khích Gia Tô giáo.

Chúng ta có thể tìm thấy một vài vết tích về kiến thức Phật giáo ở thế kỷ thứ mười lăm. Chính nhờ Tiến sĩ Zoltán Takáts de Felvincz , người đã gợi ý cho chúng ta đã quan tâm đến quyển sách của Tiến sĩ T. Kardos có tựa đề "Kỷ Nguyên của Chủ Nghĩa Nhân Bản ở Hungary" (The Age of the Humanism in Hungary). Quyển sách viết rằng ông Galeotti (1427-1497), nhà thơ , một triết gia và là một nhà thiên văn nổi tiếng đã trốn khỏi sự truy nã của chính quyền Italy, đến lánh nạn dưới triều đình vua Matthias, nước Hungary. Và tại nơi đây ông đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc ông viết và ấn hành một cuốn sách nói về Ðức Phật như một "Nhà Hiền Triết Ấn Ðộ" và qua tài liệu này, chữ Buddha (Phật) có thể đã được lấy để đặt tên cho thủ đô nước Hungary là Budapest. Chúng ta biết rằng vua Hungary Matthias thời ấy thường xuyên tranh luận với các nhà khoa học trong nước, vì vậy, có thể chắc chắn rằng Phật giáo đã là một đề tài trong những cuộc tranh luận ấy.

Sau nhiều thế kỷ dài, ký ức về một quá khứ Phật giáo xa xăm bị chìm vào lãng quên lại bừng lên trong lòng của Alexander Csoma de Kroros, một nhà thám hiểm người Hungary, đã trải qua một thời gian du hành trong vùng núi của miền tây Tây Tạng, giáo lý Ðức Phật một lần nữa đã được khơi dậy trong tâm hồn ông. Csoma de Kroros đã ghi lại nhiều từ ngữ trong tiếng Sanskrit, Pàli và Bengali. Và những từ ngữ này đã biểu lộ một sự tương đồng giữa chúng với một số tộc danh và địa danh ở Hungary ngày nay.

Tiến sĩ Th. Duka, nhà thư mục về A. Csoma de Kroros, đưa ra lời phỏng đoán đáng lưu tâm về nguồn gốc tên của thủ đô nước Hungary. Theo lời ông thì một số ngọn núi mà thành phố được xây dựng trên đó, dọc theo hai bên bờ sông Danube. Buda ở phía tây ngạn và Pest ở phía đông (vùng đồng bằng hạ lưu), nơi đó có thể đã được xây dựng một bảo tháp hay một tượng Phật hoặc có lẽ là một ngôi chùa. Và vì thế vùng này đã nhận lấy cái tên đó. Phía dưới một khu dân cư được dựng lên, như trước đầy việc ấy đã xảy ra trong vùng lân cận khu định cư của các vị tămh sĩ Phật giáo vào thời ấy. Khu dân cư đó hiện nay là một phần của thủ đô và nó được gọi là Pest. Chữ 'Past' hay chữ 'Pest' là một từ của tiếng Ba Tư có nghĩa là thấp. Nó diễn tả mối quan hệ về địa hình giữa Buda và Pest; tức là 'vùng thấp hơn Buda, vùng thấp hơn Gompa', phối hợp thành thủ đô Budapest.

Kết quả về công trình nghiên cứu tiên phong của ông A. Csoma de Kroros là mối quan tâm lớn lao đến Phật giáo ở Hungary đã dấy lên vào cuối thế kỷ. Ðiều này được chứng minh qua văn học. Có nhiều người sau khi theo học Kinh Phật đã bày tỏ niềm tin Phật giáo, và đã thành lập một số cộng đồng Phật giáo nhỏ có tính cách riêng tư. Những người tin theo Thuyết Thần Bí (Theosophist) qua các sách báo và bài giảng đã giúp cho việc duy trì mối quan tâm về Phật giáo. Một nhóm nhỏ những người đi tìm Thánh Ðạo trong những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi này đã nỗ lực thiết lập Tăng đoàn lần đầu tiên ở Hungary. Năm 1934 ở đây vẫn có tổ chức những buổi hội họp, nhưng lại thiếu một nơi thích hợp và nhiều khó khăn khác nảy sinh, rồi đến năm 1935 mối đe dọa thế chiến thứ hai đến gần nên phong trào đã ngưng lại.

Ngày sau khi nỗ lực đầu tiên nhằm thành lập một tăng đoàn ở Hungary đã chấm dứt, năm 1937 và 1938 có những bức thư gởi từ Thiên Tân, Trung Hoa của một vị Hòa thượng gốc Hungary, trong thư Ngài tuyên bố với bạn bè của mình về việc quay lại quê nhà để thành lập một Tăng đoàn. Con người đặc biệt khác thường này đạo hiệu là Trác Không (Chao Kung) tục danh là Trebits Lincoln. Ngài sinh năm 1879 tại Paks, Hungary. Từ những lá thư này cho thấy rõ rằng Ngài có ý định trở về Hungary cùng với mười vị để tử và hoạt động để phát triển Chánh Pháp. Nhưng Chính quyền Hungary thời ấy không cho phép Ngài làm việc đó.

Hai nỗ lực ấy trong những năm ba mươi, nhắm vào việc thành lập một tổ chức Phật giáo ở Hungary đã thất bại.

Do duyên lành đem lại, nỗ lực thứ ba đã thành công sau đó, vào năm 1931 tiến sĩ Ernest Hetenyl, chủ tịch Hội PG Hungary, viếng thăm Ý-Ðại-Lợi với tư cách một nhà báo, trên đại lộ dẫn đến thành phố Bari đã gặp và tiếp xúc với một Tăng sĩ Phật giáo gốc người Ðức, pháp hiệu là Padma. Vị đại đức này đã có ý định mang Phật giáo đến phát triển ở đất nước quê hương của ông A. Csoma Kroros.

Việc thành lập Phân Hội Tây Phương của Hội Arya Maitreya Mandala do Lạt ma Anagàrika Govinda (người Ấn Ðộ), dựa theo truyền thống của phái Kim Cang Thừa ở Tây Tạng, được công bố ở Sànchi - Bhopal, Ấn độ vào ngày mùng 02 tháng 11 năm 1952. Hội Phật Giáo Hungary đã gia nhập phái Kim Cang Thừa này và hoạt động từ năm 1951. Hội tiếp tục hoạt động trong phạm vi của mình và có Trung Tâm riêng ở thủ đô Budapest. Hội Phật Giáo Hungary đã công bố là 'Trung Tâm Ðông Âu' để giúp đỡ các tổ chức Phật Giáo ở các nước làng giềng.

Ðến năm 1956 (Phật lịch: 2500) Hội Arya Maitreya Mandala đã thành lập Viện Phật Học Quốc Tế mang tên vị tiền bối Phật tử tên là Alexande Csoma Kroros. Viện Phật Học này đã làm việc rất tích cực để đưa lời Phật dạy đến cho mọi Phật tử Hungary trong mấy mươi năm qua.

Trong ba thập niên sáu, bảy và tám mươi, Phật giáo Hungary dường như không phát triển vì thể chế chính trị tại xứ sở này không ưu đãi cho tôn giáo. Theo sau sự sụp đổ của Liên Xô vào tháng 12 năm 1991, các nước Trung và Ðông Aâu dần dần ổn định lại chế độ chính trị và kinh tế, những cải cách xã hội, văn hoá, tôn giáo đã được quan tâm và tiến hành một cách nhanh chóng và có hiệu quả.

Riêng về phía Phật giáo thì đầu năm 1992, tại thủ đô Budapest, Giáo Hội Phật Giáo Hungary đã thành lập một trường Trường Cao Ðẳng Pháp Môn Phật Giáo ( The Gate of Dharma Buddhist College) với 120 sinh viên Hungary ghi danh và học khoá đầu tiên . Ông Farkas Pal, 50 tuổI , hiệu trưởng của Trường, cho biết rằng, trước đây dưới chế độ Cộng Sản, có nhiều sự hạn chế và phân biệt đối với hầu hết các tôn giáo tại Hungary. Nhưng sau khi dân chủ được thiết lập trên xứ sở này thì mọi thứ đều thay đổi, nhất là về mặt tự do tín ngưỡng. Ngày trước, Hungary chỉ có bốn Ðạo được chính quyền công nhận, còn những tôn giáo khác kể cả Phật giáo thì không được thừa nhận.

Tiền thân của Trường Cao Ðẳng Phật Học này là Viện Nghiên Cứu Ðông Phương (Institute of Oriental Studies), ba trong số những người đứng ra thành lập Trường Phật học này là thành viên của Ban Ðiều Hành Viện. Tất cả các vị ấy đều là những người có tâm huyết và muốn phục hưng Phật giáo tại Hungary.

Ông Farkas Pal cũng cho biết chương trình học và dạy tại Trường rất nghèo nàn vì phải tuỳ thuộc vào nguồn tài chánh. Trường tổ chức dạy các cổ ngữ PG khác nhau như Sanskrit, Hán cổ, Tạng ngữ và Nhật ngữ. Tuy nhiên ông Pal lạc quan cho biết rằng:''dù tài chánh chúng tôi rất eo hẹp, nhưng chúng tôi có nhiều giáo sư giỏi và làm việc rất tận tâm. Lúc đầu tất cả đều làm việc không lương. Nhưng gần đây trường đã đuợc chính quyền quan tâm và giúp cho một số ngân quỹ để trả lương cho giáo viên. Chúng tôi hy vọng Trường sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ này để chúng tôi tiếp tục sứ mạng của mình''.

Giáo Hội Phật Giáo Hungary, Viện Phật Học Quốc Tế và mới đây là Trường Cao Ðẳng Phật Học đã giúp cho Phật giáo Hungary chuyển tiếp qua một giai đoạn mới, đẩy mạnh công cuộc truyền bá giáo pháp thâm diệu của Ðức Phật đến cho bất cứ ai muốn bước vào lộ trình Giác ngộ, thể hiện mọi giá trị văn hóa của phương đông cùng ý nghĩa thật sự của nó, ngỏ hầu phá tan những ảo tưởng và vô minh, làm cho con người tốt hơn và cao thượng hơn trong tinh thần hướng đến phẩm giá nhân bản, tình yêu thương, hòa ái, an lạc và hiểu biết lẫn nhau vì mục đích phồn vinh và hạnh phúc.  

3)- Phật Giáo đang phát triển tại Áo

Thượng tọa (TT) Tiến Sĩ Wijayarapura Seelawansa, 43 tuổi, người Tích Lan. Hiện là Viện trưởng Trung tâm Thiền Dhamma Zentrum tại thủ đô Vienna, Áo quốc. TT Seelawansa xuất gia năm 11 tuổi, sau khi tốt nghiệp đại học Kelaniya ở Tích Lan, TT được một số Phật tử tại Áo thỉnh đến quốc gia này để hoằng pháp vào năm 1982. Năm 1992, TT đã tốt nghiệp Tiến sĩ khoa Triết tại Ðại học Vienna và đã được đại học này mời ở lại giảng dạy khoa Tôn giáo tỷ giảo và Tâm lý học cho đến ngày nay. Vừa qua, TT cùng với 3 đệ tử người Áo viếng thăm VN. Trong dịp này, chúng tôi đã có cuộc tiếp xúc với TT để tìm hiểu về sinh hoạt của Phật giáo trên đất Áo.
 
* Xin TT cho độc giả Báo Giác Ngộ biết mục đích của chuyến viếng thăm VN lần này ?

- Ðây là lần thứ hai tôi đến thăm VN, như lần trước (cuối năm 1995) tôi muốn nghiên cứu và tìm hiểu nhiều hơn về các tôn giáo ở VN. Qua những lần đến thăm các nơi như ở TP. HCM, các tỉnh ở miền Tây, Ðà Nẵng, Huế và Hà Nội, tôi nhận ra rằng Phật giáo VN có một nét đặc thù là có thể dung hòan được những tông phái khác nhau. Các quốc gia PG láng giềng nên thừa nhận và học hỏi cái độc đáo này của PGVN. Tôi có đến thăm đạo Cao Ðài ở Tây Ninh và có tiếp xúc với một số tín đồ thuộc đạo Hòa Hảo. Vì tôi đang phụ trách giảng dạy khoa "Tôn giáo tỷ giảo" tại Ðại học Vienna, nên chuyến viếng thăm VN lần này giúp tôi rất nhiều trong việc thu nhập tư liệu. Mặt khác, mục đích của tôi đến VN là muốn tìm hiểu và giúp đỡ cho một số vị Tăng Ni có định hướng đi du học ở nước ngoài. Hiện nay tôi đang lo thủ tục để bảo lãnh hai vị Tăng Theravada đi du học ở Tích Lan. Tôi dự kiến sẽ giúp khoảng 10 Tăng hoặc Ni đến du học ở Tích Lan, Thái hay Áo quốc vào những năm tới.

* Xin TT cho biết đôi nét về sinh hoạt của Phật giáo hiện nay ở Áo ?

- Áo (Austria) là một quốc gia ở Trung Âu, nằm ở sườn bán đảo dãy Anpơ, diện tích 838.000 km2, dân số 8,2 triệu người. PG được truyền vào Áo từ những năm 1930 của thế kỷ này do công của một số Phật tử trí thức người Ðức. Từ đó đến nay PG được duy trì trong những nhóm nhỏ trí thức người bản xứ và các sắc tộc người Á châu, cho đến hai thập niên gần đây, PG tại Áo có dấu hiệu phát triển rộng trong xã hội Áo. Sự phát triển này đã được Hiến pháp nước Áo thừa nhận vào năm 1983 PG như là một trong bốn tôn giáo chính ở Áo, đứng sau Ky-tô giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo. Trước đó, nhằm củng cố và thống nhất các nhóm Phật tử ở Áo, Hội Phật giáo Áo quốc (Austria Buddhist Association) đã ra đời vào năm 1972, Hội này hiện nay đang hoạt động mạnh do Hòa thượng người Áo Geuro Koudela làm chủ tịch. Năm 1989, Hội này đã cho xuất bản tờ nguyệt san "Ursache Und Wirkung" (Nhân và Quả) do bác sĩ người Áo Peter Riedl làm chủ bút. Riêng bản thân, tôi là thành viên của Hội PG Áo quốc, tôi đang giữ chức vụ Trưởng Hệ phái Theravada và là chủ tịch tờ nguyệt san Bodhi Blatt (Lá Bồ đề). Tôi đã dịch nhiều kinh ra tiếng Ðức do người Áo tụng và gần đây tôi cho xuất bản quyển "Phật pháp dành cho thiếu nhi" (bằng tiếng Ðức) để cung cấp cho trẻ em ở quốc gia này đọc.

* Phật học có được đưa vào học đường không ? Hiện có bao nhiêu Tăn Ni và tự viện Phật giáo ở Áo ?

- Phật giáo đã có mặt ở các đại học Áo (có tất cả 10 trường) từ 20 năm nay, nó được đề cập đến rất kỹ trong phân khoa Tôn giáo tỷ giảo. Khoảng 10 năm trở lại đây, Ðại học Vienna đã tách môn Phật học ra khỏi khoa Tôn giáo tỷ giảo và đã hình thành một Phân khoa Phật học chính thức. Sự thành tựu này phải kể đến công đề bạt của giáo sư người Áo Stein Kellner. Niên khóa 1997-2001 vừa thi tuyển xong và đã có 50 thí sinh đậu vào phân khoa Phật học này.

Về số lượng Tăng Ni, Phật tử và tự viện ở Áo, theo thống kê mới đây, hiện có 20 ngôi chùa và trung tâm PG ở Áo và có 11 vị Tăng Ni, trong đó có 10 vị Tăng và một sư cô người Việt và có khoảng 20.000 Phật tử trên khắp nước Áo.

* TT có dự án nào cho công cuộc hoằng truyền chánh pháp tại Áo không ?

- Hiện tại tôi đang có dự án xây dựng một thiền viện ở thủ đô Vienna. Khi hoàn tất tôi sẽ thỉnh 3 vị Tăng người Áo từ Thái Lan về trụ trì và làm Phật sự. Hiện nay có khoảng 10 vị Tăng người Áo đang xuất gia tu học tại Tích Lan, Miến Ðiện và Thái Lan. Trong số những người này, tôi từng dạy giáo lý, hướng dẫn họ tu học và sau đó giới thiệu họ đến xuất gia và theo học tại các đại học PG như đã nói. Tôi luôn nhắm vào việc độ cho người bản xứ xuất gia tu học, rồi về sau chính những người này bung ra làm công tác truyền giáo thì có hiệu quả hơn những nhà truyền giáo ngoại quốc.

* Câu hỏi cuối cùng, xin TT cho biết bối cảnh của PG ở châu Âu hiện nay thế nào ?

- Có thể trả lời ngay rằng tình hình PG hiện nay ở châu Âu đang phát triển rất mạnh, nhất là Pháp, Anh, Ý, Ðức, Tây Ban Nha... Ðặc biệt là ở Nga, một quốc gia vừa thoát khỏi thời kỳ chiến tranh lạnh và người dân trong xứ sở này đang hướng về PG, họ cần sự giúp đỡ của các Hội đoàn PG thế giới để xây dựng lại chùa chiền để có nơi tu học. Nhìn chung, PG đang trên đà chinh phục và phát triển mạnh trên toàn cõi châu Âu nói riêng và các quốc gia Tây phương nói chung. Và đây là một tin mừng nhưng cũng là nỗi lo của các nhà truyền bá PG ở ngưỡng cửa của thế kỷ 21.

* Xin chân thành cảm ơn TT. 

 

Tổng hợp từ các tài liệu:

-- Maha Bodhi Magazine, India, 10/1974
-- Buddhism in The Modern World, New York, 1976
-- The Awakening of The West, California, 1994
-- Martin Petrich & H. Nicole , German Buddhist Newsletters, tháng 8/1995

-- Theo Tạp chí Dharma World tháng 10/1998 và Buddhists For Peace tháng 11/1986


Nguồn tin: Minh Thịnh sưu tầm
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Bộ đếm

  • Đang truy cập: 7
  • Hôm nay: 2515
  • Tháng hiện tại: 65348
  • Tổng lượt truy cập: 9652093

Lịch vạn sự

Tài khoản nhận cúng dường

 

Tài khoản tại CHLB Đức:
Konto-Nr.: 62715, Bankleitzahl: 760 694 40
Kreditinstitut: Raiffeisenbank Altdorf - Feucht eG
Begünstigter: VBKZ Franken e.V.
IBAN: DE68 7606 9440 0000 0627 15,
SWIFT-BIC: GENODEF1FEC
 
Tài khoản tại Việt Nam:
Tài khoản số: 060044816299
Tại ngân hàng: Sacombank,
Sở Giao dịch Tp. Hồ Chí Minh
Chủ tài khoản: Phạm Đức Phong
 
Tài khoản nơi có cộng đồng Việt Nam ở Hải ngoại:
Tài khoản số: 0170 003 105,
Ngân hàng số: 501 310 00
Tại ngân hàng: Vietinbank
Chủ tài khoản: VBKZ Franken e.V.
IBAN: DE60 5013 1000 0170 0031 05,
SWIFT-BIC: ICBVDEFF

Hướng dẫn đường đi

Thăm dò ý kiến

Đánh giá của bạn về website này

Tốt

Trung bình

Không có ý kiến gì

Cần thay đổi nhiều

Quảng bá