Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc

Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc
Đạo Phật đã thích ứng với mọi hoàn cảnh lịch sử và văn hóa của Dân tộc, hòa nhập cùng Dân tộc như nước với sữa, đã trở thành một tôn giáo rất gần gũi, thân thương với Dân tộc và con người Việt Nam.

Trong diễn văn khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc- Vesak 2008, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội, sáng ngày 14/5/2008, Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết đã khẳng định: “Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm, từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng từ bi, hỉ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời, phấn đấu vì hạnh phúc và an vui cho con người.
Trong các thời đại, thời nào Lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời hộ quốc an dân. Đặc biệt, lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi, từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm nơi non cao Yên Tử để học Phật, tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm - một dòng thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.
Nối tiếp dòng chảy và truyền thống gần 2000 năm qua, Phật giáo Việt Nam hôm nay đã làm được nhiều việc lợi đạo, ích đời, thực hiện cứu khổ độ sinh, thông qua hoằng dương Phật pháp vận động Tăng ni, Phật tử cả nước sống trong chánh tín, thực hiện đúng pháp luật Nhà nước, làm tròn nghĩa vụ của người công dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, tích cực tham gia các hoạt động xã hội nhân đạo, giúp đỡ người già cả, neo đơn, trẻ tàn tật, mồ côi, người gặp hoàn cảnh khó khăn, thực hiện xoá đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới văn minh, tiến bộ...
Những việc làm cao cả ấy ngày càng rõ nét và đạt thành quả lớn lao, khẳng định Phật giáo luôn gắn Đạo với Đời, là một tôn giáo có truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc…”
Đạo Phật truyền vào nước ta khoảng những năm đầu Công nguyên, đã trở thành một trong những hệ tư tưởng có sức sống lâu dài nhất và đồng hành cùng Dân tộc trong mọi thời đại.  Chính vì vậy, văn hóa Phật giáo ảnh hưởng rất sâu rộng đến đời sống văn hóa  của dân tộc .
Đạo Phật đã thích ứng với mọi hoàn cảnh lịch sử và văn hóa của Dân tộc, hòa nhập cùng Dân tộc như nước với sữa, đã trở thành một  tôn giáo rất gần gũi, thân thương với Dân tộc và con người Việt Nam.                                  
Mái Chùa che chở hồn dân tộc,                                  
Nếp sống muôn đời của Tổ  tông…”

Có  thể nói, đây là sự hòa mình của Đạo Phật, là quá trình Đạo Phật dần dần được dân gian Việt Nam hóa, biến thành một phần của cơ thể văn hóa và xã hội Việt Nam. Vì thế, “ Đạo Phật và  dân tộc” là máu và thịt, là tim và óc trong một cơ thể của một con người.
Ngược dòng lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, giữa lúc xã hội Ấn Độ đang rối ren, nhân dân cơ cực lầm than, bởi chế độ phân chia đẳng cấp hết sức khắc nghiệt, Thái tử Tất-Đạt-Đa, một Thái tử có lòng vị tha rộng lớn, chiêm nghiệm về nỗi khổ ở đời, đã quyết định hy sinh đời sống vương giả, để tìm cách giải thoát đau khổ cho nhân loại.
Tất-Đạt-Đa, con Vua Tịnh-Phạn và Hoàng Hậu Ma-Gia, nước Ca-tỳ-la-vệ, xứ Ấn Độ. Sau năm năm tầm đạo, sáu năm tu khổ hạnh, bốn mươi chín ngày ngồi thiền định đưới gốc cây Bồ đề,  Ngài đã thành bậc chánh đẳng, chánh giác, hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni.
Trong “Lĩnh Nam Chích Quái” của Vũ Quỳnh, Kiều Phú “Truyện Nhất Dạ Trạch” -còn gọi là “Truyện Chử Đồng Tử”- đã viết: “Hùng Vương truyền tới đời thứ ba thì sinh hạ được người con gái là Tiên Dung Mỵ Nương, đến tuổi mười tám dung mạo đẹp đẽ nhưng Công chúa chỉ mãi mê vui chơi, chu du khắp thiên hạ. Vua cũng không cấm.
Mỗi năm vào khoảng tháng hai tháng ba thìa săm sửa thuyền bè cheo chơi ở ngoai bể, vui quên trở về.
Hồi đó ở làng Chữ Xá, cạnh sông lớn có người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử, (có nghĩa là người con trai ở bến sông), cha từ con hiếu, nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn lại một khố vải cha con ra vào thay nhau mà mặc.
Kịp tới lúc cha già ốm, bảo  con rằng: “Cha chết của để trần mà chôn, giữ khố lại cho con” Con không nở làm theo, dùng khố mà liện cha... Tiên Dung gặp Chử Đồng Tử trong một tình huống thật đặc biệt và cho đó là duyên trời định nên hai người kết duyên chồng vợ.
Bây giờ ở núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, Đồng Tử lên am chơi gặp Tiểu tăng là Ngưởng Quang (còn gọi là Phật Quang) giác ngộ cho Đồng Tử, Đồng Tử trở về giảng lại đạo Phật cho Tiên Dung và Tiên Dung giác ngộ…”
Như  thế,  ngay từ buổi mới du nhập đất Việt, Phật giáo đã hòa quyện, hội nhập trong lòng Dân tộc. Khi đất nước trải qua ngàn năm Bắc thuộc, Phật giáo cùng chung số phận khổ nhục, đau thương, ẩn nhẫn, chịu đựng.
Trải qua hàng nghìn năm có mặt ở nước ta, thời đại nào, Phật giáo Việt Nam cũng đóng góp xứng đáng cho công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Lịch sử đã từng ghi nhận Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo lớn, yêu nước,  “hộ quốc an dân” và luôn đồng hành cùng dân tộc.
Đến nữa Thế kỷ thứ X, khi dân tộc vùng lên giành độc lập thì tức khắc Phật giáo đã cùng dân tộc đồng hành xây dựng, phát triển quê hương.
Rồi các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần là thiên sử  “Anh hùng ca” dài bốn trăm năm mươi năm, chẳng những chứng minh tinh thần độc lập, hào hùng, bất khuất của Dân tộc mà đồng thời khẳng định tinh thần gắn liền Đạo pháp với Dân tộc của Phật giáo Việt Nam, là điểm son, là dấu ấn truyền thống đặc thù của Phật giáo Việt Nam trong lòng Dân tộc.
Sự kiện thiền sư Không Lộ, Tuệ Tỉnh, Vạn Hạnh… vừa là danh y chữa bệnh cứu người vừa là nhà chính trị, ngoại giao phò vua giúp nước.
Đặc biệt đức vua Phật Hoàng Trần Nhân Tông, khi tổ quốc lâm nguy nhà vua khoác áo chiến bào hai lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Khi đất nước yên bình Ngài nhường ngôi cho con và lên non Yên Tử tu thiền trở thành Sơ tổ Thiên phái Trúc Lâm Việt Nam.
Với quan niệm “Cư trần lạc đạo” Phật hoàng Trần Nhân Tông đã mở rộng cửa Phật cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể “tùy duyên” mà “cư trần lạc đạo”.

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.


Đây là điều tâm đắc, tâm nguyện và tâm chứng của Điều Ngự Giác Hoàng nhưng nó gần gũi đến mức mỗi chúng ta đều có thể tâm đắc và “tùy duyên” mà thực hiện.
Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Phật giáo vẫn “thả một bè lau” cứu người qua biển khổ. Trong “Văn chiêu hồn”- Văn tế thập loại chúng sinh, Phật giáo vẫn:
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.


Và trong kiếp nạn con người Việt Nam vẫn tin tưởng đức Phật:
Ai ai lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi”.

bởi vì:
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Đau đớn lòng trước “những điều trông thấy”,

Nguyễn Du, thi hào vĩ đại của dân tộc ta, vẫn quả quyết khẳng định:
“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”


Như vậy, trong đau thương, Phật giáo vẫn ở trong lòng dân tộc. Cái “thiện căn” ấy tiếp thêm sức mạnh cho con người sẵn sàng diệt ác, tiêu diệt bọn ác ma dù chúng đến từ phương nào, đồng thời diệt ngay cả những “ác nghiệt” dấy lên từ nội tâm của con người.
Thế  kỷ XX, thời đại Hồ Chí Minh lịch sử, cả dân tộc đứng lên chống Thực dân và Đế quốc giành lại chủ quyền cho Dân tộc thì Phật giáo Việt Nam lại một lần nữa khẳng định vai trò của mình, kề vai sát cánh đồng hành cùng nhân dân đấu tranh thực thi khát vọng hòa bình, hạnh phúc.
Lúc bấy giờ, không chỉ có các nhà sư cởi áo nâu sòng mặc áo chiến binh ra trận mà đông đảo Phật tử đã gắn bó, cống hiến, hi sinh  cho dân tộc qua các chặng đường cách mạng.
“Lớp cha trước, lớp con sau
Trở thành đồng chí chung câu quân hành”

Rồi sự  kiện HT Thích Quảng Đức tự thiếu ngày 11-6 -1963 (nhằm ngày 20 tháng 4 năm Quí Mão), tại ngã  tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt Sài Gòn, - (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Đình Chiểu TP HCM)- đã làm chấn động cả thế giới:
“…Đệ từ hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh
Khói thơm cảnh tỉnh ai còn 'ngốc'
Tro trắng phẳng san hố bất bình
Thân cháy nát tan ra tro trắng
Thần thức nương về giúp sinh linh
Hởi ai mộng ảo đang còn mộng
Hãy gấp tỉnh đi kẻo giật mình…”         
   
Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã anh dũng hóa thân, trước hàng ngàn các Tăng, Ni và Phật Tử đứng gần đó để cầu nguyện, cùng hàng trăm các phóng viên ngoại quốc. Lực  lương an ninh của Diệm  được điều động đến để trấn áp và phá hoại cuộc tự thiêu nhưng đều thất bại, đã chứng tỏ Phật giáo Việt Nam ở trong lòng dân tộc, luôn luôn đồng hành và gắn kết cùng dân tộc trong mọi hoàn cảnh, bất cứ ở đâu và lúc nào.
Đất nước ta đang bước thời vào đại mới, mỗi người nên nhớ lời nhắn gửi của Đức Vua – Phật hoàng, Trần Nhân Tông – Sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, dẫu “cư trần” vẫn “lạc đạo” – đạo của dân tộc Việt Nam, đạo làm người: nhân ái, vị tha, yêu nước, yêu chuộng hòa bình, tự do, độc lập.
Ngày nay, với  phương châm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là:  “Đạo pháp –Dân tộc – Chủ nghĩa xã  hội” càng khẳng định rõ tính chất gắn bó giữa Phật giáo và Dân tộc Việt Nam. Thật đúng là:
“Trang sử Phật          
Đồng thời là trang sử  Việt,          
Trải bao độ hưng suy          
Có nguy mà chẳng mất….”   
                           
(Hồ Dzếnh)

 

Tác giả bài viết: Trí Bửu - Phó ban Phật giáo quốc tế THPG Khánh Hòa